Bàn về phiên hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt

Từ thực tiễn hoạt động hòa giải tại Tòa án, trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập và phân tích một số vấn đề cần lưu ý liên quan đến phiên hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015; nêu ra một số vướng mắc liên quan đến phiên hòa giải nhưng có bị đơn vắng mặt.

Hòa giải là hoạt động tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự theo nghĩa rộng tại Tòa án. Trong hoạt động hòa giải, Thẩm phán được pháp luật quy định giữ vai trò trung gian tổ chức hòa giải giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Kết quả hòa giải thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà còn tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.

1. Một số quy định cần lưu ý về phiên hòa giải

1.1. Về thành phần người tham gia phiên hòa giải

Thành phần phiên hòa giải được quy định tại Điều 209 của BLTTDS năm 2015. Theo đó, thành phần người tham gia phiên họp gồm có:

- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

- Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có);

- Người phiên dịch (nếu có).

- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan

- Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong vụ án ly hôn khi cần thiết.

Như vậy, so với quy định trước đây tại Điều 184 của BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, thì thành phần người tham gia phiên họp có quy định mới, bổ sung, đó là: đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong vụ án ly hôn khi cần thiết.

Từ quy định của BLTTDS năm 2015 về thành phần tham gia phiên hòa giải, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề như: Nếu trường hợp vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã có đăng ký với Tòa án từ khi Tòa án thụ lý vụ án hoặc trước khi Tòa án tổ chức phiên hòa giải thì có bắt buộc Tòa án phải thông báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết để tham gia phiên hòa giải không? Nếu Tòa án không thông báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết để tham gia phiên hòa giải thì có vi phạm thủ tục tố tụng không? Nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được Tòa án thông báo nhưng vắng mặt thì Tòa án có phải hoãn phiên hòa giải không?

Sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong phiên hòa giải là một quy định hoàn toàn mới của BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác hòa giải tại Tòa án, quy định này ít được các Thẩm phán quan tâm. Cho nên rất nhiều vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng không được Tòa án thông báo tham gia phiên hòa giải. Theo ý kiến của tác giả, nếu trường hợp vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã có đăng ký với Tòa án từ khi Tòa án thụ lý vụ án hoặc trước khi Tòa án tổ chức phiên hòa giải thì bắt buộc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án khi ra Thông báo về phiên hòa giải phải thông báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết để tham gia phiên hòa giải. Bởi vì theo quy định tại khoản 4 Điều 201 của BLTTDS năm 2015 có quy định rõ tại phiên hòa giải: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày nội dung tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);  người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có); người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; trình bày yêu cầu độc lập của mình (nếu có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu độc lập của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có).

Đối với vấn đề nếu Tòa án không thông báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết để tham gia phiên hòa giải thì có vi phạm thủ tục tố tụng không hoặc nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được Tòa án thông báo nhưng vắng mặt thì Tòa án có phải hoãn phiên hòa giải không thì hiện nay pháp luật không có quy định; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa có văn bản hướng dẫn.

Theo ý kiến của tác giả, nếu Tòa án không thông báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết để tham gia phiên hòa giải là có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng không nghiêm trọng hoặc nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được Tòa án thông báo nhưng vắng mặt thì tùy trường hợp mà Thẩm phán chủ trì phiên họp xem xét giải quyết. Nếu đương sự có yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhưng tại phiên họp họ đồng ý sự vắng mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và đồng ý tiến hành phiên họp thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Còn nếu đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải.

Để có nhận thức thống nhất trong thực tiễn liên quan đến vướng mắc về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên hòa giải thì rất cần TANDTC có văn bản hướng dẫn hoặc giải đáp nghiệp vụ trong thời gian tới.

1.2. Lập biên bản hòa giải thành

Biên bản hòa giải thành (hay Biên bản ghi nhận thuận tình ly hôn và hòa giải thành trong vụ án hôn nhân và gia đình) là văn bản tố tụng ghi nhận toàn bộ vấn đề phải giải quyết trong vụ án mà đương sự có mặt tại phiên hòa giải đã thống nhất, thỏa thuận với nhau. Đây là căn cứ để Thẩm phán ký ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự (Hay Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự).

Theo quy định tại khoản 5 Điều 211 của BLTTDS năm 2015 thì trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Tuy nhiên, đối với trường hợp tại phiên hòa giải có đương sự vắng mặt thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành trong trường hợp sau:

- Trường hợp các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Có thể liệt kê một số trường hợp như: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu hai bị đơn (thường là vợ chồng) cùng liên đới trả nợ nhưng tại phiên họp có mặt vợ hoặc chồng và nguyên đơn đồng ý chỉ yêu cầu vợ hoặc chồng là người có mặt trả nợ và không yêu cầu người vắng mặt trả nợ; Vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng tại phiên hợp bị đơn thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và nguyên đơn không có yêu cầu gì đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên họp.

- Trường hợp các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt nhưng trước khi mở phiên hòa giải, đương sự vắng mặt đã có văn bản nêu ý kiến của mình có nội chung chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với mình gửi cho Tòa án. Như vậy, trường hợp phiên hòa giải có đương sự nhất là bị đơn vắng mặt nhưng thỏa thuận của đương sự có mặt tại phiên hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nhưng đương sự vắng mặt chưa có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc đã có ý kiến nhưng không đồng ý hoặc chỉ đồng ý một phần yêu cầu khở kiện của nguyên đơn thì Tòa án không lập biên bản hòa giải thành.

Một vấn đề cần lưu ý là biên bản hòa giải thành phải được Tòa án gửi cho các đương sự có mặt tham gia hòa giải để các đương sự tham gia hòa giải suy nghĩ, xem xét lại thỏa thuận của mình được Tòa án ghi nhận trong biên bản hòa giải thành trong thời gian 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 212 của BLTTDS năm 2015, nếu hết thời hạn này, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Ngoài ra, cũng cần lưu ý là việc gửi bản sao biên bản hòa giải thành cho đương sự cần phải lậ thành biên bản. Thực tiễn có trường hợp có sao gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự nhưng không lập biên bản. Sau đó, đương sự có khiếu nại thì Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự được ban hành có thể bị xem xét lại theo quy định.

2. Một số vướng mắc, bất cập liên quan đến sự vắng mặt của đương sự tại phiên hòa giải

Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã có những quy định cụ thể rõ ràng liên quan đến phiên hòa giải, tuy nhiên thực tiễn giải quyết các vụ án vẫn phát sinh những tình huống mà pháp luật chưa có quy định, hướng dẫn nên nhận thức vẫn còn khác nhau. Tác giả đề cập những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn như sau:

2.1. Vụ án chỉ có một bị đơn, tại phiên hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự không?

Khoản 5 Điều 211 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn có trường hợp vụ án chỉ có đương sự là nguyên đơn và bị đơn, tại phiên hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự hay không thì hiện nay còn có các quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu bị đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm 2015 và tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án có quyền lập biên bản hòa giải thành, sau đó, gửi biên bản hòa giải thành cho bị đơn, nếu hết thời gian 07 ngày làm việc kể từ ngày bị đơn nhận được bản sao biên bản  hòa giải thành mà bị đơn không có ý kiến bằng văn bản về việc thay đổi nội dung thỏa thuận thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo quy định của BLTTDS năm 2015.

2.2. Biên bản hòa giải thành có bắt buộc phải gửi cho đương sự vắng mặt

Từ thực tiễn hòa giải các vụ án cho thấy sự thỏa thuận của đương sự có mặt có thể ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt. Tuy nhiên, vấn đề pháp lý đặt ra là biên bản hòa giải thành có bắt buộc phải gửi cho đương sự vắng mặt không thì còn nhận thức khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng Tòa án phải gửi cho đương sự vắng mặt. Chỉ khi nào đương sự vắng mặt có văn bản đồng ý với thỏa thuận của đương sự có mặt tại phiên hòa giải thì Thẩm phán mới được ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015. Lập luận của quan điểm này là các đương sự trong vụ án đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng nhau nên việc Tòa án đã gửi cho đương sự có mặt tại phiên hòa giải biên bản hòa giải thành thì Tòa án cũng phải gửi cho đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải biên bản hòa giải thành. Lý do nữa là mặc dù đương sự vắng mặt có văn bản đồng ý như thỏa thuận của đương sự vắng mặt nhưng đương sự có mặt có quyền thay đổi ý kiến trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành thì đương sự vắng mặt cũng có quyền thay đổi ý kiến như đương sự có mặt tại phiên hòa giải. Tóm lại, Tòa án phải gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt là cần thiết và đảm bảo sự công bằng cho các đương sự trong vụ án.

Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa án không phải gửi biên bản hòa thành cho đương sự vắng mặt. Lập luận của quan điểm này là tại khoản 5 Điều 211 BLTTDS năm 2015 quy định biên bản hòa giải thành được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Điều này được hiểu Tòa án chỉ gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự tham gia hòa giải tức đương sự có mặt tại phiên hòa giải. Lý do tiếp theo nếu thỏa thuận của đương sự có mặt không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì việc gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt là không cần thiết. Việc đương sự vắng mặt có đồng ý hay không đồng ý với thỏa thuận của đương sự vắng mặt cũng không ảnh hưởng gì đến việc giải quyết vụ án. Còn đối với đương sự vắng mặt nhưng thỏa thuận của đương sự có mặt có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì Tòa án có thể áp dụng tinh thần quy định ại khoản 3 Điều 17 Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Cụ thể như sau: “Trường hợp trước khi tiến hành hòa giải đương sự vắng mặt đã có ý kiến bằng văn bản nhưng sau khi kết thúc phiên hòa giải, nội dung hòa giải của các đương sự có mặt khác với nội dung văn bản thể hiện ý chí của đương sự vắng mặt, thì Tòa án phải lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải về thỏa thuận của các đương sự tại phiên hòa giải. Thủ tục và thời hạn lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự đồng ý với kết quả hoà giải thì ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải được xác định là ngày các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án.”.

Theo như quy định này thì Tòa án chỉ tiến hành lấy ý kiến của đương sự vắng mặt nếu sự thỏa thuận của đương sự có mặt khác với ý kiến của đương sự vắng mặt đã nêu trong văn bản gửi cho Tòa án. Nếu đương sự vắng mặt đồng ý bằng văn bản thỏa thuận của đương sự có mặt thì Tòa án mới lập biên bản hòa giải thành. Điều này cũng được hiểu nếu sự thỏa thuận của đương sự có mặt phù hợp với ý kiến của đương sự vắng mặt thì Tòa án cũng không phải tiến hành lấy ý kiến của đương sự vằng mặt và Tòa án cũng không phải gửi ngay biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt.

2.3. Trường hợp đương sự vắng mặt gửi văn bản đồng ý thỏa thuận của đương sự có mặt là hơn 07 ngày, kể từ ngày Tòa án lập biên bản hòa giải thành thì Thẩm phán ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự không?

Theo quy định tại Điề 212 của BLTTDS năm 2015,  hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trường hợp thỏa thuận của đương sự có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.

Từ quy định này, qua thực tiễn hòa giải các vụ án cho thấy, đối với trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đã có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn trước khi hòa giải mà thỏa thuận của đương sự có mặt phù hợp với ý kiến của đương sự vắng mặt thì Tòa án gửi bản sao biên bản hòa giải thành hoặc thông báo nội dung của biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt để yêu cầu đương sự vắng mặt cho biết ý kiến về nội dung mà các đương sự có mặt đã thỏa thuận trong thời gian 07 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được bản sao biên bản hòa giải thành hay thông báo nội dung của biên bản hòa giải thành. Do đó, thời gian đương sự vắng mặt gửi văn bản (giả sử là đồng ý với nội dung thỏa thuận của đương sự có thể là trong hoặc sau thời gian 07 ngày). Vậy đương sự vắng mặt đã gửi văn bản đồng ý cho Tòa án nhưng vì lý do nào đó mà Tòa án nhận được văn bản của đương sự vắng mặt là hơn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giai thành (ví dụ như 10, 15 ngày) thì Tòa án có được quyền ra Quyết định công nhận sự thuận của đương sự không? Vấn đề này cũng còn nhận thức khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự nếu có căn cứ cho rằng đương sự vắng mặt đã gửi văn bản nêu ý kiến đồng ý sự thỏa thuận của đương sự có mặt cho Tòa án trong thời gian 07 ngày kể từ ngày họ nhận được bản sao biên bản hòa giải thành hoặc Thông báo về nội dung của biên bản hòa giải thành.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án không ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự vì không đảm bảo thời gian 07 ngày theo quy định.

Kết luận: Hòa giải vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, được xem là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất. Tuy nhiên, với những bất cập đã nêu có thể thực tiễn sẽ có những nhận thức khác nhau và dẫn đến việc giải quyết vụ án nhất là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có thể có sai sót. Điều này, đòi hỏi Thẩm phán khi tiến hành hòa giải cần phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời TANDTC cần tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về công tác hòa giải để từ đó có hướng dẫn cụ thể hơn, tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật tại các Tòa án địa phương hiện nay.

 

Hòa giải viên Trung tâm Hòa giải, đối thoại TAND tỉnh Bình Dương tham gia hòa giải một vụ tranh chấp dân sự - Ảnh: Tâm Trang

DƯƠNG TẤN THANH (Phó Chánh án TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh)