Không có căn cứ để hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của ông H và cụ C

Nghiên cứu bài viết của tác giả Chu Thanh Tùng, đăng ngày 15/02/ 2023 bàn về vấn đề nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng và tình huống cụ thể, tôi cho rằng việc Tòa án hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H và cụ C là không có căn cứ.

Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “… Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

Khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “ 1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”

Trong tình huống tác giả đặt ra, bà T và ông H là vợ chồng có đăng ký kết hôn. Diện tích đất 267,55m2 tại thửa đất số 65, tọa lạc tại phường A có nguồn gốc của vợ chồng cụ B cụ C. Ngày 26/4/2008, cụ B cụ C lập Hợp đồng tặng cho con là ông H quyền sử dụng diện tích đất nêu trên. Ngày 25/9/2008, ông H được Uỷ ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù bà T và ông H là vợ chồng hợp pháp có đăng ký kết hôn nhưng cụ B và cụ C đã lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho con là ông H. Hơn nữa, giữa ông H và bà T cũng không có thỏa thuận về việc sẽ đưa tài sản này nhập vào tài sản chung. Không thể lấy lý do là ông H và bà T cùng nhau xây dựng nhà trên đất đã thể hiện sự đồng ý sáp nhập khối tài sản này của ông H vào tài sản chung của vợ chồng. Chính vì vậy, quyền sử dụng đất do cụ B và cụ C tặng cho vẫn thuộc tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân của ông H.

Ngoài ra, khi ông H và T cùng nhau xây dựng nhà cửa trên diện tích đất là tài sản riêng của ông H thì nhà trên đất mới thuộc khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Tuy nhiên, trong thực tế, khi giải quyết các tranh chấp về đất đai khi có tài sản trên đất là tài sản chung, nhưng quyền sử dụng đất lại là tài sản riêng rất phức tạp, nhiều quan điểm khác nhau.  Khi giải quyết ly hôn, thường các đương sự sẽ giải quyết theo thỏa thuận đối với khối tài sản chung trên đất. Trường hợp không thỏa thuận được sẽ áp dụng nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng theo quy định tại Điều 59, Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Ở tình huống trên, căn cứ vào Giấy biên nhận, bà T đã nhận 150.000.000 đồng (theo thỏa thuận ly hôn chia tài sản với ông H). Ngày 29/7/2011, bà T lập “Tờ cam kết” có nội dung: Bà xin cam kết với Ủy ban nhân dân phường và các cơ quan ban ngành có liên quan đến tài sản của bà và ông H. Trước đây, bà có tranh chấp với ông H và cụ C. Nay bà và ông H đã thỏa thuận ly hôn tự chia tài sản đã xong, bà không có tranh chấp về tài sản có liên quan đến bà; đề nghị các cơ quan liên quan tạo điều kiện cho ông H, cụ C tiếp tục làm hồ sơ chuyển nhượng hoặc thủ tục có liên quan về tài sản bình thường. Nếu sau này bà có tranh chấp bà hoàn toàn chịu trách nhiệm trước cơ quan và pháp luật. Theo đó, tờ cam kết này đã thể hiện bà T đã thỏa thuận xong về tài sản khi ly hôn với ông H và không còn tranh chấp.

Do đó, quyền sử dụng đất vẫn thuộc tài sản riêng của ông H và Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H và cụ C là có hiệu lực pháp luật.

 

Các tranh chấp về đất đai khi có tài sản trên đất là tài sản chung, nhưng quyền sử dụng đất lại là tài sản riêng rất phức tạp - Ảnh minh họa: Thái Vũ

NGUYỄN THANH HUYỀN (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 7)