Những hạn chế trong quy định tạm ngừng phiên tòa hình sự trong BLTTHS 2015
Tạm ngừng phiên tòa hình sự sơ thẩm là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này đang có những vướng mắc, hạn chế cần khắc phục.
Tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm liên quan đến nhiều vấn đề về thủ tục tố tụng hình sự mà Hội đồng xét xử áp dụng tại phiên tòa. Tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm là thủ tục tố tụng hình sự mới được BLTTHS 2015 quy định lần đầu tiên, mà BLTTHS 2003 không quy định.
Thực tiễn áp dụng tại TAND hai cấp tỉnh An Giang cho thấy, dù BLTTHS 2015 có quy định cụ thể tại Điều 251 về tạm ngừng phiên tòa, nhưng thực tiễn áp dụng còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Đó là thời hạn tạm ngừng phiên tòa quá ngắn (5 ngày); thủ tục tạm ngừng của Hội đồng xét xử phải lập biên bản gì; Ai là chủ thể tiến hành các bước tiếp theo sau khi tạm ngừng phiên tòa; Tiến hành thu thập chứng cứ như thế nào; Ai có thể tiến hành thu thập chứng cứ; Thế nào là “có thể thực hiện được trong thời hạn 5 ngày”; Trong thời gian tạm ngừng Hội đồng xét xử có được quyền xét xử phiên tòa khác hay không; Sau khi mở lại phiên tòa thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa có thể được thay thế bởi người khác hay không; Hết thời hạn 5 ngày tạm ngừng phiên tòa mà chưa thể mở lại phiên tòa thì có phải mở phiên tòa để ban hành quyết định hoãn phiên tòa hay không; Thư ký phiên tòa vắng mặt ngay từ đầu thì ai lập biên bản phiên tòa ghi nhận việc tạm ngừng nếu không có Thư ký dự khuyết; các biểu mẫu liên quan đến Quyết định tạm ngừng phiên tòa; biên bản tạm ngừng phiên tòa, biên bản ghi nhận việc vắng mặt Thư ký, sự kiện bất khả kháng, sức khỏe người tiến hành, tham gia tố tụng; Làm sao có thể xác định được trong thời hạn 5 ngày những người tiến hành tố tụng có thể tiếp tục phiên tòa.
Việc BLTTHS 2015 quy định tạm ngừng phiên tòa, là sự tiến bộ trong quá trình lập pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự một cách nhanh chóng, tuy nhiên việc quy định thời gian tạm ngừng 5 ngày là quá ngắn, không đảm bảo thời gian để thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc mở lại phiên tòa, trong khi quy định hoãn phiên tòa đến 30 ngày thì việc 5 ngày để thu thập chứng cứ mang tính chủ quan của Hội đồng xét xử, nếu thấy cần thu thập chứng cứ thì hoãn phiên tòa sẽ có nhiều thời gian hơn chứ không cần phải tạm ngừng.
Thư ký Tòa án tham gia phiên tòa là người tiến hành tố tụng, đây là chức danh tố tụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhất định. Điều 288 và Điều 349 BLTTHS năm 2015 quy định về sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án, phiên tòa chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa. Theo đó, trong trường hợp vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa, thì phiên tòa phải được tạm ngừng và việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 251 BLTTHS năm 2015.
Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 251 với khoản 3 Điều 299 BLTTHS năm 2015 cho thấy có sự mâu thuẫn, vì trong trường hợp Thư ký Tòa án vắng mặt tại phiên tòa thì ai sẽ là người ghi biên bản phiên tòa. Trong trường hợp này tác giả đề nghị khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải phân công thư ký dự khuyết, để khi thư ký chính thức vắng mặt sẽ được thay thế lập biên bản phiên tòa, biên bản ghi nhận sự vắng mặt do sức khỏe và sự kiện bất khả kháng.
Sau khi tạm ngừng phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ thu thập chứng cứ hay ra thông báo yêu cầu Viện kiểm sát thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 252 BLTTHS năm 2015. Trong khi Điều 88 BLTTHS năm 2015 lại quy định chung cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, trong đó có Tòa án được tiến hành thu thập chứng cứ như xem xét tại chỗ vật chứng, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm. Theo tác giả quy định trên cần phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với Điều 88 BLTTHS năm 2015.
Khi tạm ngừng phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải lập biên bản hội ý để nêu căn cứ tạm ngừng phiên tòa, sau đó mới ra quyết định tạm ngừng phiên tòa, thể hiện ý chí của Hội đồng xét xử trong việc quyết định các vấn đề tại phiên tòa. Trong thời gian tạm ngừng phiên Tòa các thành viên Hội đồng xử có thể tham gia xét xử vụ án khác khi được phân công theo quy định, nên khi mở lại phiên tòa có thể để Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm khác tham gia phiên tòa. Thực tiễn giải quyết các vụ án cho thấy mặc dù tạm ngừng nhưng các Hội thẩm nhân dân thường họ kiêm nhiệm công tác khác nên khó có thể mời họ xét xử lại, do đó Chánh án ra quyết định phân công lại để Hội thẩm, Thư ký khác tham gia xét xử là hoàn toàn phù hợp đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử hiện nay.
Quy định có thể khắc phục trong thời hạn 5 ngày, có thể trở lại xét xử trong hạn 5 ngày mang tính định tính, chủ quan của Hội đồng xét xử, sẽ bị lạm dụng để tạm ngừng, tác giả nhận thấy cần phải sửa đổi quy định về thời gian tạm ngừng phiên tòa lên 15 ngày để đảm bảo các thủ tục tống đạt thông báo mở lại phiên tòa cho bị cáo, luật sư, người tham gia tố tụng.
Kiến nghị cần bổ sung các biểu mẫu tố tụng liên quan đến tạm ngừng phiên tòa, hướng dẫn thống nhất: Quyết định tạm ngừng phiên tòa, Biên bản hội ý tạm ngừng phiên tòa của Hội đồng xét xử; biên bản ghi nhận sự vắng mặt Thư ký; thành viên Hội đồng xét xử, đương sự do sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng; Quyết định xem xét vật chứng, xem xét hiện trường…
Tòa án nhân dân Quận 10 TPHCM tổ chức phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” – Ảnh: Dương Thúy Hằng
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Không nhất thiết phải đề cập đến “tờ vé số có phải là tài sản hay không”
Bàn về dự thảo Án lệ số 08/2024/AL -
Hành vi của Nguyễn Văn B chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội “tàng trữ trái phép súng săn”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
Bình luận