Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Bảo lưu quyền sở hữu là một trong các quy định thuộc phần hợp đồng mua bán tài sản và xét về bản chất, nó chỉ giống như việc bên bán được quyền “chậm thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản” sang cho bên mua. Tuy nhiên, trong BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu được ghi nhận là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

1.Khái quát bảo lưu quyền sở hữu

Bảo lưu quyền sở hữu không phải là nội dung mới được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 mà đã được ghi nhận từ các BLDS trước đó (1995 và 2005). Tức là xét về lịch sử hình thành thì đây không phải là quy định mới, nhưng xét dưới góc độ biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì đây là quy định xuất hiện đầu tiên trong BLDS năm 2015, điều này được thể hiện, trong cả hai BLDS năm 1995 và 2005, bảo lưu quyền sở hữu chỉ là một trong các quyền luật định, cho phép bên bán tài sản có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình trước sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần[1].

Với vị trí là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, các vấn đề liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Đây chính là cơ sở quan trọng cho các bên trong hợp đồng mua bán tài sản, đặc biệt là bên bán có căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế[2].

Tuy nhiên, trong BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu được ghi nhận trong cả hai chế định (chế định hợp đồng và chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự), và đặc biệt khi nghiên cứu các quy định này, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề pháp lý cần phải được giải quyết:

Thứ nhất, bảo lưu quyền sở hữu là một quyền của bên bán trong hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần hay là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng đối với mọi hợp đồng mua bán tài sản. Sở dĩ đây được coi là một trong những vấn đề đầu tiên cần được giải quyết bởi việc ghi nhận bảo lưu quyền sở hữu trong cả hai chế định với những quy định khác biệt đã khiến cho thực tiễn tồn tại các luồng ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu là quyền luật định, tức là quyền bảo lưu do luật ghi nhận cho bên bán tài sản. Ý kiến khác lại cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm hình thành theo thoả thuận, vì để coi là biện pháp bảo đảm thì các bên phải xác lập văn bản (văn bản riêng hoặc ghi vào nội dung hợp đồng) để bảo lưu quyền sở hữu tài sản.

Thứ hai, đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu là tài sản mua bán (một loại tài sản) hay là quyền sở hữu tài sản (một loại vật quyền)? Đây là vấn đề còn chưa cụ thể và dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng, đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu là tài sản mua bán, vì bên bán có quyền đòi lại tài sản nếu bên mua không thanh toán đầy đủ tiền trong một thời hạn nhất định. Ý kiến khác lại cho rằng, đối tượng của biện pháp này chỉ là quyền sở hữu tài sản, bởi bên bán đã chuyển giao tài sản cho bên mua và chỉ giữ lại quyền sở hữu.

Thứ ba, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì? Hiện nay trong khoa học pháp lý dân sự, tồn tại hai luồng ý kiến trái chiều về phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi bảo lưu quyền sở hữu chỉ là nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản, bởi nếu tại thời điểm nhận tài sản, bên mua đã thanh toán đầy đủ số tiền mua tài sản thì sẽ không đặt ra câu chuyện bảo lưu quyền sở hữu mà chúng ta cần phải bàn luận. Ý kiến thứ hai lại cho rằng, phạm vi bảo đảm của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là tất cả nghĩa vụ của bên mua, bao gồm nghĩa vụ thanh toán (phát sinh cùng thời điểm với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu) và nghĩa vụ hoàn trả lại tài sản (nghĩa vụ phát sinh sau thời điểm bảo lưu có hiệu lực).

Thứ tư, giá trị đích thực của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì? Thực tiễn tồn tại hai luồng ý kiến về giá trị đích thực của biện pháp này. Có ý kiến cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu cũng giống các biện pháp bảo đảm khác ở chỗ bảo vệ quyền lợi cho bên bán trước sự vi phạm của bên mua. Ý kiến khác lại cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu không đạt được các yêu cầu của một biện pháp bảo đảm, bởi nó không có tính dự phòng như các biện pháp bảo đảm khác, nên bên bán không có căn cứ để bảo vệ quyền lợi khi bên mua cố tình vi phạm. Nếu bên mua không thanh toán tiền và không trả lại tài sản mua bán thì biện pháp này đặt ra cũng không có giá trị.

Thứ năm, phạm vi áp dụng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là gì? Chính những quy định khác biệt về căn cứ phát sinh bảo lưu quyền sở hữu trong chế định hợp đồng và chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nên dẫn đến có những quan điểm không thống nhất. Có ý kiến cho rằng, bảo lưu quyền sở hữu chỉ áp dụng đối với hợp đồng mua trả chậm, trả dần, bởi chỉ trong loại hợp đồng này, nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản mới có thể được thực hiện sau khi đã nhận tài sản. Ý kiến khác lại cho rằng, trong bất cứ hợp đồng mua bán tài sản nào, nếu xuất hiện sự kiện bên mua chậm thanh toán thì quyền sở hữu đều được bảo lưu. Mâu thuẫn này xuất phát từ cách hiểu không thống nhất về tên gọi của hợp đồng mua trả trậm, trả dần.

2. Quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu

Thứ nhất, đối với bảo lưu quyền sở hữu

Đối tượng của hợp đồng mua bán có thể là bất động sản, động sản đăng ký quyền sở hữu và các tài sản khác. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì người mua trở thành chủ sở hữu khi được đăng ký quyền sở hữu. Đối với các tài sản khác, người mua có quyền sở hữu khi nhận tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp mua bán trả chậm, trả dần, thì việc xác lập hoặc hạn chế quyền sở hữu do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận. Thông thường trong hợp đồng mua bán trả chậm thì bên mua có quyền sở hữu tài sản khi trả hết tiền mua, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Để bảo đảm cho việc thanh toán tiền mua trả chậm, trả dần, pháp luật cho phép các bên thỏa thuận xác lập biện pháp bảo lưu quyền sở hữu của bên bán đến khi bên mua trả hết tiền mua. Có nghĩa là bên bán chưa chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản, bên bán vẫn tồn tại một số quyền đối với người mua như quyền đòi lại tài sản kể cả trong trường hợp bên mua đã đăng ký quyền sử dụng như mua trả chậm xe ô tô, xe máy.

Khoản 1 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định: “Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bao lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ”. Quy định này gián tiếp có thể hiểu, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể áp dụng đi kèm với hợp đồng mua bán tài sản. Trong khi đó, nếu chỉ xét về bản chất của tên gọi “bảo lưu quyền sở hữu”, có thể hình dung biện pháp này có thể áp dụng đi kèm với các giao dịch liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản. Điều này có nghĩa là, đối với tất cả các giao dịch có liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản thì các chủ thể đều có thể thực hiện quyền “bảo lưu quyền sở hữu” của mình.

Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận ở góc độ này thì chưa đủ, bảo lưu quyền sở hữu được áp dụng có tính chất của một biện pháp bảo đảm, tức là cùng với dấu hiệu nhận biết là áp dụng với các giao dịch mà trong đó có động tác chuyển quyền sở hữu tài sản còn cần thêm dấu hiệu là các giao dịch này phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên được chuyển giao quyền sở hữu. Tức là nó được hình thành trên cơ sở các hợp đồng song vụ. Với phân tích trên, hợp đồng mua bán chỉ là loại điển hình của hợp đồng song vụ có chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Bên cạnh đó, hợp đồng trao đổi tài sản theo quy định tại Điều 455 BLDS 2015 cũng có những tính chất như đã phân tích trên đây. Nếu áp dụng đúng quy định tại Điều 331 BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu không được phép áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản.

Khoản 4 Điều 455 BLDS năm 2015 quy định: “Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản”. Nên có thể nhận định, bảo lưu quyền sở hữu được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản”.

Thứ hai, đối với quyền đòi lại tài sản

Điều 332 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thoả thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Quy định này có thể hiểu, quyền đòi lại tài sản là quyền của bên bán, đòi lại tài sản từ bên mua nếu bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Trong quan hệ mua bán tài sản không phải lúc nào các bên cũng đủ điều kiện để “mua đứt bán đoạn”, mà trong một số trường hợp các bên có thể thỏa thuận về việc “mua chậm trả dần”. Trong quan hệ mua bán theo hình thức mua chậm trả dần, bên mua được chiếm hữu, sử dụng tài sản mua mặc dù chưa thanh toán tiền, vì vậy bên mua hoàn toàn có đủ điều kiện để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bên bán. Do đó, để bảo vệ quyền được thanh toán cho bên bán, pháp luật quy định biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu. Mặc dù bên mua vẫn có quyền sử dụng, chiếm hữu tài sản mua, nhưng bên bán vẫn là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản, việc định đoạt tài sản của bên mua được thực hiện dưới sự kiểm soát của bên bán cho đến khi bên mua hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.

Trong biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, bên mua không cần giao tài sản bảo đảm cho bên bán, do đó, khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Vì, bên bán vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản, nên khi bên mua không thực hiện nghĩa vụ, khi đến hạn bên bán được đòi lại tài sản. Khi giao kết hợp đồng mua bán tài sản theo hình thức mua chậm trả dần, bên mua thanh toán trước cho bên bán một khoản tiền, phần còn lại được thanh toán sau trong thời hạn mà hai bên thỏa thuận. Vì vậy, khi bên bán đòi lại tài sản thì đồng thời phải trả lại cho bên mua số tiền mà bên mua đã thanh toán trước đó. Sau một thời gian sử dụng, tài sản có thể bị hao mòn do lỗi của bên mua, vì vậy bên bán được quyền khấu trừ giá trị hao mòn tài sản, trước khi trả lại tiền cho bên mua. Lưu ý, hao mòn giá trị tài sản ở đây phải là do việc sử dụng tài sản của bên mua, chứ không phải hao mòn tự nhiên của tài sản. Trong khi đó, khoản 2 Điều 41 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 16/8/2017 của Chính phủ quy định thi hành BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quy định: “Bên mua không phải chịu trách nhiệm về hao mòn tự nhiên của tài sản được bảo lưu quyền sở hữu”. Nếu tài sản bị mất nát, hư hỏng thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại tương đương với giá trị thiệt hại. Tuy nhiên, trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, bên mua hoặc bên thứ ba có thể đầu tư vào tài sản, người đầu tư có thể là bên mua hoặc bên thứ ba tuỳ bào từng trường hợp và nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 41 Nghị định số 21/NĐ-CP[3].

Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản

Trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu, bên bán là bên có quyền. Để đáp ứng yêu cầu của bên bán, bên mua phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, để cân bằng lợi ích các bên trong cùng một quan hệ, pháp luật đã trao cho bên mua một quyền năng cơ bản. Điều 333 BLDS năm 2015 quy định về quyền của bên mua đó là: “1.Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực; 2.Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

Có nghĩa là, khi mua tài sản theo hình thức mua trả chậm, trả dần, mặc dù chưa thanh toán hết tiền, nhưng bên mua vẫn được chiếm hữu, sử dụng tài sản. Bên bán chỉ kiểm soát việc bên mua tặng cho, trao đổi, bán tài sản khi chưa thanh toán hết tiền, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Nên, bên mua vẫn có quyền hưởng hoa lơi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. Quy định nhằm tạo điều kiện cho bên mua trong việc sử dụng tài sản và đúng với bản chất của bảo lưu quyền sở hữu. Bảo lưu quyền sở hữu là việc bên bán bảo lưu quyền sở hữu của mình với tài sản đã bán, trong trường hợp bên mua chưa thanh toán hết tiền, theo đó, bên mua vẫn có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản trong thời hạn bảo lưu. Nếu, bên mua không được sử dụng tài sản cho đến khi thanh toán hết tiền thì quan hệ mua bán này lại quay trở về hình thức mua đứt, bán đoạn. Việc để bên mua được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản còn tạo ra nguồn thu nhập để thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ: A mua xe ô tô của B theo hình thức trả dần, các bên có thỏa thuận về áp dụng biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu và được ghi nhận trong hợp đồng chính. Theo đó, A có thể sử dụng chiếc xe đó cho thuê để thu lợi, khoản lợi này có thể dùng để thanh toán nốt phần nghĩa vụ còn thiếu với B. Việc đầu tư vào tài sản phải phù hợp theo định tại khoản 5 Điều 20 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành BLDS về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ[4].

Bên cạnh đó, thực tế tài sản đã thuộc quyền sử dụng của bên mua, bên mua có quyền sử dụng tài sản mà không phụ thuộc ý chí của bên bán. Do đó, bên mua phải chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu. Trường hợp nếu hết thời hạn bảo lưu mà bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thì bên mua phải bồi thường cho bên bán những thiệt hại đã gây ra. Nếu hết thời hạn bảo lưu và bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thì bên mua phải chịu rủi ro về tài sản trong quá trình sử dụng. Các bên có thể có thoả thuận khác về việc chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu.

Thứ tư, chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu

Theo quy định tại Điều 334 BLDS năm 2015, Bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt trong các trường hợp sau: (i) Nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong (ii) Bên bán nhận lại tài sản bảo lưu quyền sở hữu; (iii) Theo thoả thuận của các bên.

Thông thường khi bên mua thanh toán đầy đủ tiền mua thanh toán đầy đủ tiền mua thì có quyền sở hữu đối với tài sản mua, nên bảo lưu quyền sở hữu sẽ chấm dứt; trường hợp bên mua không thể hoặc cố tình không thanh toán hết tiền mua còn lại, thì bên bán sẽ đòi lại tài sản và biện pháp bảo lưu quyền sở hữu cũng chấm dứt; Trường hợp bên bán xoá nợ số tiền chưa thanh toán cho bên mua, cho phép bên mua có quyền sở hữu đầy đủ đối với tài sản[5].

3. Những hạn chế và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu

3.1. Những hạn chế và kiến nghị chung về bảo lưu quyền sở hữu

Thứ nhất, việc quy định bảo lưu quyền sở hữu ở cả hai chế định với hai phương thức xác lập khác nhau là nội dung hạn chế đầu tiên của BLDS về bảo lưu quyền sở hữu[6]. Xét về bản chất bảo lưu quyền sở hữu là việc bên bán được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Đồng thời, dù có tồn tại ở hai chế định khác nhau thì quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn không có sự thay đổi. Về nguyên tắc, nếu bên mua không thanh toán hết tiền mua tài sản thì bên bán vẫn có quyền đòi lại tài sản và phải trả lại tiền cho bên mua, đồng thời bên mua phải trả lại tài sản và được nhận lại tiền. Việc quy định như BLDS hiện hành cho thấy: (i) Trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần, bảo lưu quyền sở hữu được xác lập tự động khi các bên lựa chọn phương thức thanh toán là trả chậm, trả dần (không cần có điều khoản hay văn bản riêng về bảo lưu quyền sở hữu); (ii) Với vị trí là một biên pháp bảo đảm, bảo lưu quyền sở hữu không được xác lập một cách tự động mà các bên buộc phải lập văn bản thoả thuận cụ thể về bảo lưu quyền sở hữu hoặc phải thiết lập một điều khoản riêng về bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán.

Với những quy định như hiện nay, các nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn có quyền suy đoán và áp dụng khác nhau về bảo lưu quyền sở hữu. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc xác định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các bên khi bên mua trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Nếu có sự quy định thống nhất thì sẽ thống nhất được cách hiểu và áp dụng có hiệu quả về bảo lưu quyền sở hữu. Nên, theo quan điểm của tác giả, vì không có sự khác nhau về bản chất của bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần với bảo lưu quyền sở hữu với vị trí là một biện pháp bảo đảm nên không cần thiết phải tồn tại quy định bảo lưu quyền sở hữu trong cả hai chế định. Để hạn chế những quan điểm mâu thuẫn về bảo lưu quyền sở hữu, đồng thời để có cách hiểu và áp dụng thống nhất quy định bảo lưu quyền sở hữu trong cùng một chế định. Mà để có thể thống nhất được các quy định trong cùng một chế định không phải là việc có thể tiến hành trong một sớm một chiều. Bởi vì, hoạt động lập pháp, đặc biệt là việc ban hành hay sửa đổi, bổ sung BLDS phải trải qua một quá trình thảo luận, lấy ý kiến lâu dài. Nên, theo quan điểm của tác giả, trước khi ban hành văn bản hướng dẫn về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cần có quy định nhằm hướng dẫn cụ thể về bảo lưu quyền sở hữu theo hướng xác định bảo lưu quyền sở hữu trong hai chế định có cùng bản chất để có thể thống nhất trong cách hiểu và áp dụng.

Thứ hai, với những phân tích về bản chất về bảo lưu quyền sở hữu cho thấy việc thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là một biện pháp bảo đảm chỉ là sự miễn cưỡng của nhà xây dựng luật, bởi khi nghĩa vụ chính bị vi phạm, bên nhận bảo đảm có thể xử lý tài sản bảo đảm để khấu trừ nghĩa vụ bị vi phạm hoặc có thể yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ. Do đó, nếu một biện pháp được thừa nhận mà không có chức năng bảo đảm và tính dự phòng thì không thể bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ với bên nhận bảo đảm (bên có quyền).

Trong khi đó, bảo lưu quyền sở hữu không mang tính bảo đảm, chỉ mang tính dự phòng của một biện pháp bảo đảm. Bởi về mặt lý thuyết, bên bán chính là bên nhận bảo đảm, còn bên mua là bên bảo đảm, nhưng tài sản bảo đảm lại thuộc sở hữu của bên bán, hơn nữa lại do bên mua nắm giữ và khai thác, sử dụng. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lưu quyền sở hữu là nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản. Tuy nhiên, xét thực tế, nếu bên mua không thanh toán đủ tiền mua tài sản, đồng thời có hành vi tẩu tán tài sản thì khi đó việc đồi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) khó có thể thực hiện được và cũng không có cơ sở nào để bảo đảm cho những quyền này được đáp ứng trên thực tiễn.

3.2. Những hạn chế và kiến nghị cụ thể về bảo lưu quyền sở hữu

Thứ nhất, quy định tại Điều 332 BLDS năm 2015 có những bất cập đó là:

(i) Tên gọi của Điều luật này là quyền đòi lại tài sản, nên về nguyên tắc nội dung của Điều luật này phải quy định về các quyền liên quan đến việc đòi lại tài sản mới phù hợp với tên gọi. Tuy nhiên, xem xét nội dung tại Điều 332 cho thấy, ngoài việc quy định quyền đòi lại tài sản và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên bán, Điều luật này còn quy định về nghĩa vụ của bên bán trong việc hoàn trả số tiền bên mua đã thanh toán cho bên bán[7]. Rõ ràng quy định này đã thể hiện sự không thống nhất giữa tên gọi và nội dung của Điều luật.

Có hai phương án có thể đưa ra khi khắc phục điểm bất cập này đó là: (i) Loại bỏ đoạn quy định về nghĩa vụ của bên bán ra khỏi Điều 332; (ii) Sửa tên Điều 332 thành Quyền và nghĩa vụ của bên bán. Theo quan điểm của tác giả, phương án thứ nhất không phù hợp bởi việc loại bỏ nghĩa vụ của bên mua khỏi Điều 332 thì nhà xây dựng luật sẽ phải dành một điều luật riêng để quy định về nghĩa vụ này. Điều này không cần thiết bởi nội dung nghĩa vụ của bên bán không đến mức phức tạp để có thể quy định riêng. Hơn nữa, kể cả có loại bỏ nghĩa vụ của bên bán khỏi Điều 332 thì tên gọi của Điều này với nội dung cũng chưa thống nhất khi tên gọi là quyền đòi lại tài sản nhưng nội dung lại bao gồm cả quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản. Tức là vẫn phải sửa tên Điều 332 cho phù hợp với nội dung của Điều luật. Theo hướng phân tích này, tác giả cho rằng phương án thứ hai về sửa tên Điều 332 thành quyền và nghĩa vụ của bên bán sẽ là lựa chọn tối ưu hơn.

(ii) Việc quy định đan xen giữa quyền và nghĩa vụ thể hiện một cách hành văn không mạch lạc trong việc ban hành quy định pháp luật. Về nguyên tắc, mỗi quy định được ban hành phải thể hiện sự thông suốt, đơn giản, dễ hiểu để bảo đảm cho các cơ quan nhà nước và các chủ thể có thể hiểu và áp dụng thống nhất. Nên, theo quan điểm của tác giả, ngoài việc sửa tên Điều 332, nội dung của Điều luật này cũng phải được tách biệt thành các khoản riêng biệt như sau:

Điều 332. Quyền và nghĩa vụ của bên bán tài sản

1.Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thoả thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản

2. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

3. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng.

(iii) Với những quy định như hiện nay, quyền và nghĩa vụ của bên bán là do luật định. Tức là khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản, bên bán có hai quyền là quyền đòi lại tài sản và quyền và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có), và có nghĩa vụ hoàn trả số tiền mà bên mua đã thanh toán cho bên bán. Quy định này dường như đi ngược lại với nguyên tắc thoả thuận khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự đã được quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015.

Thứ hai, đối với quy định tại Điều 333 về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản. Khoản 1 Điều này quy định về quyền của bên mua tài sản, theo đó, bên mua có quyền “sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Nghiên cứu khái niệm về quyền sử dụng tại Điềub 189 cho thấy “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Tức là quyền sử dụng sẽ gao gồm nội dung chính là khau thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 333 lại quy định bên mua “có quyền sử dụng tài sản” và “hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” là không hợp lý. Bởi về lý luận, quyền sử dụng tài sản bao hàm trong đó cả nội dung của quyền hưởng hoa lợi, lợi tức. Mặc dù đây có thể chỉ là sai sót về mặt kỹ thuật, nhưng rõ ràng điều này cũng làm giảm giá trị của quy định luật. Nên, tác giả kiến nghị sửa khoản 1 Điều 333 như sau: “Khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực”. Và cần bổ sung các quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản vào Điều 333 như sau: (i) Về nghĩa vụ: “Hoàn trả tài sản cho bên bán nếu không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Bồi thường thiệt hại cho bên bán nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản”; (ii) Về quyền: “Yêu cầu bên bán hoàn trả số tiền đã thanh toán sau khi đã trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

Thứ ba, đối với các trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu. BLDS năm 2015 chỉ quy định ba trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên, ngoài 3 trường hợp đã được quy định tại Điều 334 BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu vẫn có thể chấm dứt trong các trường hợp khác như: bảo lưu quyền sở hữu được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác như bảo lãnh; tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản nói chung, bảo lưu quyền sở hữu nói riêng không còn; hợp đồng mua bán chấm dứt do bị huỷ bỏ hoặc bị đơn phương chấm dứt…Nên, theo quan điểm của tác giả, cần bổ sung các trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu vào Điều 334 BLDS năm 2015.

Như vậy, nghiên cứu quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu, có thể thấy rằng nội dung quy định pháp luật còn bộc lộ nhiều bất cập cần phải điều chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên thì việc sử đổi, bổ sung nội dung quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu cần phải có lộ trình cụ thể chứ không thể sửa đổi ngay trong khoảng thời gian một sớm một chiều được. Trong thời gian tới, khi ban hành văn bản hướng dẫn về nội dung này thì có thể xem xét, cụ thể hoá cũng như bổ sung chi tiết các quy định về bảo lưu quyền sở hữu cho phù hợp với quy định của BLDS năm 2015.

 

Mua bán trả góp là một phương thức khá phổ biến hiện nay - Ảnh: CTV

 

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập II, Nxb Công an nhân dân, tr.108.

[2] Giáp Minh Tâm (2017), Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.1.

[3] Khoản 1 Điều 41 Nghị định số 21/NĐ-CP ngày 16/8/2017 của Chính phủ quy định thi hành BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quy định: “Trường hợp bên mua phải trả lại tài sản mua cho bên bán do vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng tại thời điểm hoàn trả, giá trị tài sản lớn hơn gía trị tài sản ban đầu do bên mua hoặc bên thứ ba đã đầu tư làm tăng giá trị tài sản thì bên bán phải hoàn lại giá trin chênh lệch cho người đã đầu tư vào tài sản.

Việc đầu tư vào tài sản mua phải phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định này.

[4] Điều 41 Nghị định số 21/NĐ-CP ngày 16/8/2017 của Chính phủ quy định thi hành BLDS về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quy định: “1. Một nghĩa vụ có thể được bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp bảo đảm. Trường hợp nghĩa vụ này bị vi phạm mà bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm không có thoả thuận về việc lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm thì bên nhận bảo đảm lựa chọn biện pháp bảo đảm để áp dụng hoặc áp dụng tất cả các biện pháp bảo đảm; 2. Một nghĩa vụ có thể được bảo đảm thực hiện bằng nhiều tài sản. Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của từng tài sản trong số các tài sản bảo đảm được xác định theo thoả thuận của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm.  Trường hợp không có thoả thuận thì bất kỳ tài sản nào trong số đó được dùng để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.

[5] PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS. Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Công an nhân dân, tr.530.

[6] Giáp Minh Tâm (2017), Tlđd, tr.77 – tr.78.

[7] Trần Thị Huệ (2020), Một số khía cạnh pháp lý về bảo lữu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí luật học, số 2, tr24 -tr.26.

 NCS. ThS. ĐOÀN THỊ NGỌC HẢI (Nghiên cứu sinh Khoa pháp luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội)