Biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và một số quốc gia

Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam được xây dựng theo hướng tập trung bảo vệ cho bên mua tài sản, trong khi các quy định để bảo vệ bên bán vẫn chưa được chú trọng. Trong phạm vi bài viết, tác giả sẽ phân tích khung pháp lý liên quan đến biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia, từ đó đưa ra các gợi mở nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện nay.

1.Tổng quan

Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo lưu quyền sở hữu mà chỉ mô tả cách thức để các bên triển khai biện pháp này. Theo đó, trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ[1]. Cách tiếp cận này giống với cách tiếp cận của pháp luật Pháp khi nói về bảo lưu quyền sở hữu[2]. Hiểu đơn giản, đây là biện pháp bảo đảm mà theo đó người có quyền sở hữu đối với một tài sản đã bán được giữ lại quyền sở hữu dù tài sản đã được chuyển giao cho người mua[3].

Nếu trước đây, bảo lưu quyền sở hữu được xem như là quyền của bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản, thì hiện nay, đây được xem là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chính thức trong Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015[4]. So với các biện pháp bảo đảm thông thường, bảo lưu quyền sở hữu có hai đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, tài sản bảo đảm vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán (không thuộc về bên bảo đảm). Chính đặc điểm này khiến cho biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được các bên trên thực tế quan tâm, bởi do các bên có thể sử dụng tài sản có sẵn trong hợp đồng mua bán mà không cần dùng đến tài sản bảo đảm khác; Thứ hai, phạm vi nghĩa vụ bảo đảm tương đối hẹp. Theo đó, chỉ áp dụng đối với nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán tài sản; Thứ ba, cơ chế xử lý tài sản bảo đảm tương đối đặc biệt - Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản.

Đối với bảo lưu quyền sở hữu, bên bán không được lấy lại đối tượng là tài sản đã bán cho đến khi nghĩa vụ đến hạn, bởi lẽ việc bên bán chuyển giao tài sản cho bên mua, thậm chí trước cả khi bên mua thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy, trong hầu hết các trường hợp, bên bán không thể đòi lại tài sản của mình. Về tổng quan, khi đánh giá về khung pháp lý liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu hiện hành, pháp luật Việt Nam tiếp cận theo hướng có phần bảo vệ bên mua nhiều hơn, trong khi đó quyền lợi của bên bán trong bảo lưu quyền sở hữu vẫn chưa được thực sự quan tâm.

2. Phạm vi bảo đảm đối với bảo lưu quyền sở hữu

Theo BLDS, các bên trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ[5]. Như vậy, nghĩa vụ được bảo đảm (bằng bảo lưu quyền sở hữu) đã được giới hạn, cụ thể là chỉ áp dụng đối với nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán tài sản[6]. Thực tế cho thấy, trong hợp đồng mua bán tài sản, các bên có nhiều nghĩa vụ với nhau mà theo đó khi vi phạm, bên bán vẫn có quyền lấy lại tài sản đã bán.

Thí dụ, A bán hàng cho B theo điều kiện B sẽ thanh toán cho A trong 3 đợt. Hai bên thỏa thuận việc bảo lưu quyền sở hữu đến khi B thanh toán đủ tiền. Trong hợp đồng, hai bên thỏa thuận về việc, trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng: B không được mang tài sản đã bảo lưu quyền sở hữu để đi đặt cọc, cầm cố hoặc thế chấp. Trường hợp này, B cố tình mang tài sản đã mua có bảo lưu quyền sở hữu để đi cầm cố bảo đảm cho nghĩa vụ khác. Căn cứ theo quy định pháp luật, A vẫn không thể lấy lại tài sản đã bán, bởi lẽ như đã phân tích, nghĩa vụ bị vi phạm không phải là nghĩa vụ thanh toán, vì vậy, đây không phải là căn cứ để A thu lại tài sản đã bán. Nói cách khác, việc B mang tài sản này đi cầm cố sẽ không phải là điều kiện để bên bán có thể lấy lại tài sản trong trường hợp này[7].

Mở rộng hơn, có thể thấy, bởi lẽ BLDS quy định biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm[8]. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại của BLDS. Như vậy, xét trong trường hợp này, nếu việc bảo lưu quyền sở hữu không được đăng ký tại cơ quan chức năng (do đó không làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba), thì bên nhận cầm cố sẽ có quyền ưu tiên thanh toán cao hơn, bởi do cầm cố đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, mặc dù việc bảo lưu quyền sở hữu đã được thực hiện từ trước[9].

Từ phân tích trên, dễ thấy pháp luật hiện nay không có quy định nào để bảo vệ về quyền lợi của bên bảo lưu quyền sở hữu khi bên mua dùng tài sản để bảo đảm hay thậm chí là chuyển nhượng. Đây là lỗ hổng pháp lý lớn gây ảnh hưởng đến quyền của bên bán trong hợp đồng mua bán có thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu, xuất phát từ việc hạn chế nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lưu quyền sở hữu.

 Từ bất cập trên, theo tác giả, nghĩa vụ được bảo đảm ở đây nên được mở rộng hơn theo hướng, ngoài nghĩa vụ thanh toán, pháp luật nên bổ sung thêm các nghĩa vụ khác do các bên thỏa thuận. Dưới góc độ luật so sánh, dễ thấy, pháp luật nhiều quốc gia mở rộng phạm vi bảo đảm bằng bảo lưu quyền sở hữu theo hướng công nhận các nghĩa vụ khác theo thỏa thuận giữa các bên, bên cạnh nghĩa vụ thanh toán. Chẳng hạn, dân luật Trung Quốc mở rộng phạm vi không chỉ đối với nghĩa vụ thanh toán, mà còn các nghĩa vụ khác theo thỏa thuận giữa các bên như nghĩa vụ hạn chế sử dụng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, hay chưa hoàn thành các điều kiện tiên quyết như phải có giấy phép hoặc giấy chứng nhận hoặc việc bên mua tài sản cố tình dùng tài sản đem đi bán, đặc biệt là đối với các động sản không đăng ký quyền sở hữu[10]. Đây là hướng tiếp cận phù hợp mà Việt Nam có thể tham khảo.

3.Xử lý tài sản bảo đảm được bảo lưu quyền sở hữu

3.1.Về điều kiện thực hiện

Về cơ chế bảo đảm, trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại[11].

Như vậy, pháp luật quy định việc bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn là cơ sở để bên bán thực hiện quyền lấy lại tài sản đã bán. Tuy nhiên, quy định này lại chưa dự trù đến tình huống nếu hai bên không có thỏa thuận về thời hạn thanh toán, hệ quả là phương án giải quyết trong trường hợp này chưa được dự liệu.

Lấy thí dụ A bán cho B một số chiếc xe gắn máy, hai bên có thỏa thuận về việc bảo lưu quyền sở hữu đến khi B thanh toán đầy đủ tiền cho A. Tuy nhiên, thời hạn thanh toán các bên không thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp này, do không có quy định đối với bảo lưu quyền sở hữu, ta phải áp dụng các quy định chung về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán, cụ thể Điều 434 khoản 3 BLDS có quy định như sau: Bên mua thanh toán tiền mua theo thời gian thỏa thuận. Nếu không xác định hoặc xác định không rõ ràng thời gian thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay tại thời điểm nhận tài sản mua hoặc nhận giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản.

Như vậy, về nguyên tắc, do không có thỏa thuận cụ thể (hoặc không có), trường hợp này sẽ thanh toán tại thời điểm giao chứng nhận quyền sở hữu, bởi lẽ tài sản đã được giao cho bên mua trước đó. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp, bên mua cố tình sử dụng tài sản mà không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho bên bán mà bên bán cũng không thể thực hiện quyền lấy lại tài sản trong trường hợp này.

Ngoài ra, bản chất đối với các tài sản được đăng ký chứng nhận quyền sở hữu, thì thời điểm đăng ký đã làm cho bên mua trở thành chủ sở hữu. Bên bán trong trường hợp này không còn là chủ sở hữu mà chỉ đang nắm giữ giấy chứng nhận quyền sở hữu. Vì vậy rủi ro cho bên bán vẫn còn rất lớn, trong khi bên mua đã có thể thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản.

Theo tác giả, để khắc phục thiếu sót trên, pháp luật nên bổ sung thêm quy định trường hợp nếu hai bên không có thỏa thuận về thời điểm thực hiện việc nghĩa vụ thanh toán, giải pháp đưa ra là bên bán có thể thông báo cho bên mua biết trong một khoản thời gian hợp lý cho bên mua để thực hiện nghĩa vụ và chuyển giao quyền sở hữu đã bảo lưu. Nếu quá thời hạn trên, bên bán có quyền thực hiện cơ chế lấy lại tài sản bảo đảm để xử lý.

3.2.Phương thức xử lý tài sản bảo đảm là tài sản bảo lưu quyền sở hữu

Khi bên mua không hoàn thành được nghĩa vụ thanh toán, bên bán thực hiện quyền lấy lại tài sản bảo đảm, sẽ có thể xảy ra hai khả năng như sau:

Thứ nhất, tài sản bảo đảm lớn hơn giá trị nghĩa vụ. Đối với trường hợp này, pháp luật quy định bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng[12]. Ngoài ra, Nghị định 21/2021/NĐ-CP cũng làm rõ, trường hợp bên mua phải trả lại tài sản mua cho bên bán do vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng tại thời điểm hoàn trả, giá trị tài sản lớn hơn giá trị tài sản ban đầu do bên mua hoặc bên thứ ba đã đầu tư làm tăng giá trị tài sản thì bên bán phải hoàn lại giá trị chênh lệch cho người đã đầu tư vào tài sản.

Từ quy định trên có thể thấy, nhà làm luật đang có hướng bảo vệ quyền lợi của bên mua nhiều hơn bên bán. Bởi lẽ, nếu bên mua không thật sự có ý định mua tài sản, thì sẽ tìm cách dây dưa không trả đủ tiền, đồng thời sẽ sử dụng tài sản một cách tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm và bên bán sẽ gánh chịu hậu quả[13].

Cũng theo quy định trên, bên bán có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bên mua số tiền đã thanh toán trừ đi giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Quy định này vô tình lại bỏ qua các chi phí khác của bên bán. Bởi lẽ việc giao kết và thực hiện hợp đồng không chỉ bao gồm các chi phí khác (ví dụ phí môi giới, phí bảo hiểm,…). Do đó, tác giả kiến nghị nên bổ sung thêm vào các chi phí khác để giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán phát sinh.

Thứ hai, tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ. Giả sử trường hợp bên mua sau khi đòi lại tài sản, giá trị của tài sản lấy lại không đủ để bù vào nghĩa vụ bên mua còn thiếu, trường hợp này sẽ xử lý như thế nào thì pháp luật hiện nay chưa thực sự minh thị rõ ràng. Cũng lưu ý, pháp luật cũng có nêu, nếu bên mua làm hỏng thì sẽ phải bồi thường thiệt hại. Song, nhiều trường hợp, việc bên mua sử dụng làm hao mòn tài sản dẫn đến giá trị tài sản giảm chứ không hẳn do hư hỏng. Như vậy, quy định này lại không thể áp dụng trong trường hợp nêu trên.

Do đó, thiết nghĩ pháp luật nên quy định bổ sung trong trường hợp sau khi bên bán lấy lại tài sản, nếu giá trị tài sản còn lại nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ, thì bên bán có quyền đòi bên mua phải trả cho đủ. Hướng tiếp cận nêu trên cũng được tìm thấy trong pháp luật của nhiều quốc gia. Theo BLDS Trung Quốc, Điều 643 có đề cập rằng, khoản giá có được từ việc bán vật đối tượng, sau khi trừ đi phần giá người mua ban đầu chưa thanh toán và các chi phí cần thiết khác mà vẫn còn thừa thì phải trả lại cho người mua ban đầu, nếu không đủ thì phần không đủ do người mua ban đầu thanh lý bồi thường[14]. Theo pháp luật Pháp, nếu toàn bộ số nợ không được thanh toán đủ khi đến hạn, người có quyền có thể đòi lại tài sản để thu hồi quyền định đoạt đối với tài sản đó.  Giá trị của tài sản lấy lại được trừ vào phần còn lại của quyền đòi nợ được bảo đảm. Nếu giá trị của tài sản lấy lại lớn hơn số tiền nợ được bảo đảm vẫn còn phải trả, người có quyền phải trả cho người có nghĩa vụ một khoản tiền bằng phần chênh lệch (Điều 2371 BLDS).[15]

 

[1] Điều 331 Bộ luật Dân sự 2015.

[2] Nguyễn Ngọc Điện, Pháp luật Cộng hòa Pháp về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến động sản: quyền cầm giữ, bảo lưu quyền sở hữu và giá trị tham khảo cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211386, truy cập ngày 6/9/2023.

[3] Phạm Văn Tuyết, Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện quy định của pháp luật vê bảo lưu quyền sở hữu, Tạp chí Luật học, số 03/2022, tr. 29.

[4] Điều 461 BLDS 2005.

[5] Điều 331 khoản 1 BLDS 2015.

[6] Theo Tưởng Duy Lượng, bảo lưu quyền sở hữu được điều chỉnh trong phạm vi rất hẹp, đó là bảo lưu quyền sở hữu trong quan hệ mua bán hàng hóa, với trường hợp bên mua chưa phải thực hiện nghĩa vụ do trả chậm, trả dần. Xem Tưởng Duy Lượng (2019), Một số vấn đề cơ bản về biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tr. 23.

[7] Có ý kiến cho rằng, do tài sản mua đã thuộc về người mua, nên họ có quyền sử dụng tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào người bán. Vì thế bên mua phải chịu rủi ro khi tài sản mất mát, hư hỏng và vẫn phải trả hết số tiền mua chưa thanh toán. Xem Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Chủ biên), Bình luận khoa học BLDS 2015, Nxb. Công an nhân dân, năm 2017, tr. 529.

[8] Điều 297 BLDS 2015.

[9] Điều 308 BLDS 2015 có quy định: Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước.

[10] Dưới góc độ so sánh, cách tiếp cận này được ghi nhận theo Điều 641 BLDS Trung Quốc.

[11] Điều 332 BLDS 2015.

[12] Điều 332 BLDS 2015.

[13] Nguyễn Ngọc Điện, Pháp luật Cộng hòa Pháp về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến động sản: quyền cầm giữ, bảo lưu quyền sở hữu và giá trị tham khảo cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211386, truy cập ngày 9/6/2023.

[14] Xem Bộ luật dân sự Trung Quốc 2020 – Bản dịch và lược giải, NXB. ĐHQG Hà Nội, năm 2021, tr.206.

[15] Điều 2371 BLDS Pháp có quy định, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình, bên có quyền có quyền yêu cầu lấy lại tài sản để thực hiện quyền của mình và nếu giá trị tài sản thu hồi lớn hơn so với nghĩa vụ thanh toán thì bên thu hồi tài sản – bên bán có nghĩa vụ hoàn trả phần chênh lệch cho bên mua.

LIÊN ĐĂNG PHƯỚC HẢI (Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh)- VŨ CAO NGUYÊN (Thư ký TAND TP Hải Dương)