Luật Tố tụng Hành chính 2015, một số vướng mắc và kiến nghị sửa đổi

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016) là một bước tiến mới, hoàn thiện về mặt lập pháp. Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật cũng bộc lộc một số bất cập và cần được sửa đổi, bổ sung.

1.  Quy định về quyết định hành chính, hành vi hành chính; quyết định hành chính bị kiện, hành vi hành chính bị kiện

- Điều 3 Luật TTHC 2015 có quy định giải thích về quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định hành chính bị kiện, hành vi hành chính bị kiện, nhưng vẫn chưa rõ và chưa giải thích khái niệm “hoạt động quản lý hành chính”. Chính vì vậy, việc xác định quyết định, hành vi hành chính nào là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong thực tiễn không phải là điều dễ dàng. Chính vì vậy mà thực tiễn có trường hợp Thẩm phán đã trả lại đơn khởi kiện không đúng. Do đó, đề nghị bổ sung vào Điều 3 Luật TTHC khái niệm “hoạt động quản lý hành chính” và quy định cụ thể hơn về quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện.

- Luật Khiếu nại và Luật TTHC 2015 cho phép cá nhân, tổ chức được quyền khởi kiện đối với “hành vi không giải quyết khiếu nại”. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều trường hợp đã thấy rõ việc Cơ quan hành chính Nhà nước hoặc Người có thẩm quyền trong Cơ quan hành chính Nhà nước không giải quyết khiếu nại là đúng, nhưng vẫn phải thụ lý theo quy định, tiến hành các thủ tục xét xử để bác đơn yêu cầu, gây tốn kém về kinh tế, mất thời gian và ảnh hưởng đến các hoạt động, nhiệm vụ công vụ khác. Ví dụ như các trường hợp sau đây:

1) Hành vi không giải quyết khiếu nại vượt cấp (chưa khiếu nại đến Cơ quan hành chính, Người có thẩm quyền trong Cơ quan hành chính theo quy định tại Điều 7, Điều 17, Điều 18 Luật khiếu nại để giải quyết khiếu nại lần đầu, mà đã khiếu nại đến Cơ quan, Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2) nên Cơ quan, Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 đã không giải quyết và chuyển đơn của họ đến Cơ quan, Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu để giải quyết theo quy định;

2) Hành vi không giải quyết và trả lại đơn đối với đơn có nội dung khiếu nại đã được giải quyết bằng Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

3) Người khởi kiện chỉ khởi kiện đối với hành vi không giải quyết khiếu nại mà không yêu cầu xem xét nội dung khiếu nại (vì biết nội dung khiếu nại là không đúng, không được chấp nhận).

Chính vì vậy, tác giả đề nghị sửa đổi Luật TTHC với quy định mở là đối với một số hành vi không giải quyết khiếu nại mà ngay từ đầu đã xác định rõ hành vi không giải quyết là đúng như các trường hợp nêu trên thì Tòa án có thể quyết định không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện.

2. Quy định về Người bị kiện

- Khoản 9 Điều 3 Luật TTHC 2015 quy định “Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính... bị khởi kiện”. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn có vướng mắc khi xác định Người bị kiện trong các trường hợp:

1) Người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy cả Quyết định hành chính của Chủ tịch UBND huyện và Quyết định hành chính của Chủ tịch UBND tỉnh trong cùng một vụ án thì người bị kiện trong trường hợp này được xác định như thế nào?

2) Người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy cả Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND huyện và Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh, nhưng Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND huyện đã hết thời hiệu khởi kiện thì có xác định Chủ tịch UBND huyện là Người bị kiện hay không?

3) Người khởi kiện chỉ khởi kiện đối với Quyết định GQKN lần đầu của Chủ tịch UBND huyện (đã hết thời hiệu) mà không khởi kiện đối với Quyết định GQKN lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh (còn thời hiệu) mặc dù đã được Tòa án giải thích thì có xác định Chủ tịch UBND tỉnh là Người bị kiện không, hay chỉ là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?

4) Trường hợp Người có thẩm quyền giải quyết vụ việc và Người ban hành Quyết định hành chính giải quyết vụ việc là khác nhau (do Người ban hành ký thay hoặc ký thừa lệnh, ký ủy quyền) thì xác định Người bị kiện trong trường hợp này như thế nào (mặc dù đã có quy định hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP nhưng cũng chưa đầy đủ và cần được luật hóa trong Luật TTHC 2015).

Vì vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTHC 2015 theo hướng quy định cụ thể hơn các trường hợp nêu trên.

3. Về tài liệu, chứng cứ chứng minh

Điều 10 Luật TTHC 2015 và Chỉ thị số 26/CT-TTg  ngày 15/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chấp hành pháp luật tố tụng hành chính đã nêu rõ về nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, quy định của Luật TTHC 2015 chưa có chế tài đủ mạnh nên nhiều cơ quan hành chính nhà nước cung cấp chưa kịp thời, đầy đủ hồ sơ, tài liệu có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện theo đúng quy định; một số cơ quan, tổ chức chưa thực sự quan tâm đến công tác phối hợp với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, tham gia định giá tài sản, thực hiện uỷ thác tư pháp… do đó, thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài.

Vì vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTHC 2015 theo hướng bổ sung các quy định chế tài nhằm buộc người bị kiện là Ủy ban nhân dân, Chủ tịch UBND và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ; người bị kiện phải có trách nhiệm tham gia đối thoại, tham gia phiên tòa để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết án hành chính tại Tòa án.

4. Về thẩm quyền theo cấp, lãnh thổ

Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 và khoản 4 Điều 32 Luật TTHC 2015 thì thẩm quyền của Tòa án có những sửa đổi, bổ sung so với Luật TTHC năm 2011, theo đó các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh. Do đó, việc xét xử phúc thẩm các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện trên thuộc thẩm quyền của TAND cấp cao. Chính vì vậy, từ ngày 01/7/2016 đến nay số lượng án hành chính sơ thẩm ở Tòa án cấp tỉnh và án hành chính phúc thẩm ở các TAND cấp cao thụ lý ngày càng tăng.

Số vụ việc hành chính tăng cao và tính chất vụ án ngày càng phức tạp nhưng biên chế Thẩm phán tại TAND cấp cao được phân bổ quá ít để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ (ví dụ như TAND cấp cao tại Hà Nội chỉ được 43 biên chế, thực tế lại còn bổ nhiệm thiếu so với định lượng biên chế được giao, trong đó 10 Thẩm phán đồng thời giữ vị trí Lãnh đạo TAND cấp cao và các Chánh tòa Tòa chuyên trách). Mặt khác, trong công tác giám đốc thẩm, tái thẩm thì Thẩm phán giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm lại kiêm nhiệm nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, nên cũng hạn chế phần nào việc đẩy nhanh cao nhất tiến độ giải quyết các vụ án hành chính.

Vì vậy, đề nghị sửa đổi quy định tại Điều 31, 32 Luật TTHC 2015 theo hướng giao vụ án hành chính mà người bị kiện là UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện về cho TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm như Luật TTHC 2011 hoặc sửa Luật TTHC, Luật Tổ chức Tòa án về việc thành lập Tòa án chuyên biệt xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính theo khu vực, để tránh áp lực xét xử phúc thẩm tại TAND cấp cao, đồng thời cũng là giải pháp tăng cường vai trò của công tác giám đốc thẩm, tái thẩm án hành chính tại TAND cấp cao, giảm số vụ việc giám đốc thẩm, tái thẩm án hành chính tại TANDTC. Đồng thời quy định rõ hơn về trường hợp Tòa án cấp tỉnh xét thấy cần thiết thì có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện lên để xét xử trên tinh thần hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và bổ sung trường hợp là các vụ án nhạy cảm mà Người bị kiện là Chủ tịch, UBND cấp huyện.

5. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử

Theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 193 Luật TTHC 2015 thì trong trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện thì tuyên nội dung “buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luậthoặc “buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật”. Thực tiễn, nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn còn băn khoăn là có buộc phải tuyên như trên hay không? Nếu tuyên buộc thực hiện… hoặc không thực hiện… thì Hội đồng xét xử có phải tuyên cụ thể nhiệm vụ, công vụ mà Cơ quan Nhà nước, Người có thẩm quyền trong Cơ quan Nhà nước phải thực hiện hay không.

Vì vậy, đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 193 Luật TTHC 2015 quy định cụ thể hơn về thẩm quyền của Hội đồng xét xử khi tuyên chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện.

6. Về người tiến hành tố tụng

Khoản 1 Điều 12, Điều 36, Điều 39 Luật TTHC 2015 quy định Hội thẩm nhân dân cũng là người tiến hành tố tụng và “việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Mặt khác, số lượng Hội thẩm lại nhiều hơn số lượng Thẩm phán mà Hội thẩm được “Tiến hành hoạt động tố tụng và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử”. Việc quy định như trên là không phù hợp với tính chất của việc giải quyết vụ án hành chính vì bản chất việc giải quyết vụ án hành chính là xem xét tính hợp pháp của các khiếu kiện, cần đến nhiều hơn chuyên môn về pháp luật so với các loại án khác. Do đó, đề nghị sửa đổi Luật TTHC về số lượng Hội thẩm tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính phải ít hơn số lượng Thẩm phán trong Hội đồng xét xử.

7. Về người tham gia tố tụng

Theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật TTHC 2015 thì “Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”. Như vậy, Người bị kiện trong các vụ án hành chính là người đứng đầu cơ quan quản lý Nhà nước, Chủ tịch UBND,  UBND các cấp, vì vậy đại diện theo pháp luật là Chủ tịch UBND (hoặc người được ủy quyền là các Phó Chủ tịch) cấp huyện, cấp tỉnh. Thực tế, có một số lãnh đạo cấp huyện tham gia rất tích cực, hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc cung cấp tài liệu, trình bày ý kiến và tham gia đầy đủ các phiên tòa (như huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Tuy nhiên ở một số vụ án, việc chấp hành quy định tham gia phiên tòa của người bị kiện không nghiêm túc, vắng mặt không có lý do hoặc xin hoãn phiên tòa nhiều lần vì lý do khách quan (giải quyết công việc phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương) hoặc có đơn xin xét xử vắng mặt (đặc biệt là UBND thành phố Hà Nội ít khi Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch tham gia phiên tòa).

Luật TTHC quy định cho phép xét xử vắng mặt đương sự vì vậy người bị kiện chưa tích cực tham gia phiên tòa. Việc vắng mặt của người bị kiện làm ảnh hưởng đến tranh tụng tại phiên tòa, có vụ phải tạm ngừng để thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ vì đại diện ủy quyền không thể quyết định được việc sửa đổi, hủy bỏ quyết định hành chính trong bồi thường thiệt hại, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Mặt khác, Luật TTHC quy định Tòa án phải lần lượt triệu tập lấy lời khai, yêu cầu cung cấp chứng cứ, tiến hành đủ hai lần đối thoại, hai lần triệu tập xét xử mới xét xử vắng mặt được; người khởi kiện thì bức xúc, phản ứng gay gắt, không đồng tình khi xét xử vắng mặt người bị kiện; nhiều trường hợp đã khiếu nại, yêu cầu thay đổi Thẩm phán.

Hơn nữa, thực tế triển khai Luật TTHC 2015 gặp phải tình trạng là một số địa phương có số lượng khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND, Chủ tịch UBND quá nhiều sẽ gây ảnh hưởng đến công tác quản lý hành chính nhà nước và việc phát triển an sinh xã hội, kinh tế của địa phương

Đề nghị: Sửa đổi Luật TTHC theo hướng mở rộng quy định người được ủy quyền, như Chủ tịch có thể ủy quyền cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn là thành viên của UBND tham gia tố tụng giải quyết án hành chính, chứ không nhất thiết quy định cứng nhắc rằng cứ phải ủy quyền cho Phó Chủ tịch và có quy định mở là trừ trường hợp xét thấy cần thiết thì Tòa án yêu cầu trực tiếp Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch tham gia tố tụng.

8. Về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

- Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho người bị kiện hiện nay cũng có nhiều bất cập: Trường hợp người bị kiện là Ủy ban nhân dân hay Chủ tịch Ủy ban nhân dân, việc tống đạt các văn bản tố tụng rất khó khăn do người bị kiện ít khi trực tiếp tham gia tố tụng và cũng không ủy quyền cho cấp phó trực tiếp tham gia tố tụng để nhận các văn bản tố tụng của Tòa án. Khi Tòa án tống đạt văn bản tố tụng qua bộ phận văn thư của người bị kiện thì những người này thường không đồng ý ký tên vào biên bản tống đạt để việc tống đạt được hợp lệ.

- Khoản 5 Điều 102 Luật TTHC quy định: “Cấp, tống đạt, thông báo bằng phương thức khác theo quy định tại Điều 303 của Luật này”. Tuy nhiên, quy định như trên là chưa đầy đủ và cụ thể. Vì vậy, đề nghị bổ sung khoản 5 Điều 102 Luật TTHC nội dung: Ngay sau khi thụ lý, trường hợp đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác đồng ý triệu tập thông qua phương tiện điện tử (khoản 2 Điều 102) theo số điện thoại hoặc hộp thư điện tử  thì Tòa án lập biên bản về việc này và thực hiện tống đạt theo phương thức này.

9. Về thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Tuy nhiên, Luật TTHC không quy định cụ thể trường hợp nào tính từ ngày “nhận được”, trường hợp nào tính từ ngày “biết được”, chính vì vậy trong thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm khác nhau, cụ thể:

+ Quan điểm thứ nhất: Thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

+ Quan điểm thứ hai: Thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

+ Quan điểm thứ ba: Thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, tức là dấu hiệu “nhận được/biết được” nào đến trước thì tính theo dấu hiệu đó.

+ Quan điểm thứ tư: Việc căn cứ vào thời điểm “nhận được” hay “biết được” quyết định hành chính, hành vi hành chính phải tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Đối với trường hợp người khởi kiện là đối tượng được nhận quyết định hành chính hoặc trực tiếp là đối tượng tác động của hành vi hành chính thì căn cứ để tính thời hiệu khởi kiện là ngày “nhận được”; đối với những trường hợp khác thì căn cứ để tính là ngày “biết được” (Đây là quan điểm trên tinh thần quy định hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các dự án lớn thu hồi đất của nhiều hộ dân, người có thẩm quyền thu hồi đất không đến giao trực tiếp mà thông qua cán bộ thôn nhưng chỉ giao cho một người ký nhận, hoặc gia đình không ký nhận giấy tờ, không chịu nhận Quyết định thu hồi, bồi thường… nhưng ngoài việc giao cho từng hộ, các Quyết định hành chính đều được niêm yết công khai, thông báo trên loa đài… Do đó, sẽ là bất cập nếu các trường hợp này tính thời hiệu kể từ ngày họ “nhận được”. Vì vậy, đề nghị sửa đổi Luật TTHC theo hướng quy định rõ về thời điểm tính thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 116 Luật TTHC 2015.

10. Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại

  Khoản 3 Điều 137 Luật TTHC 2015 quy định: Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo bằng văn bản việc hoãn phiên họp, mở lại phiên họp cho các đương sự”. Tuy nhiên, điều luật không quy định cụ thể về số lần tối đa đương sự được vắng mặt có lý do chính đáng và không quy định cụ thể số lần các đương sự được quyền đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án. Không ít trường hợp, các đương sự lạm dụng sự vắng mặt, lạm dụng quyền đề nghị hoãn phiên họp để trì hoãn việc giải quyết vụ án dẫn đến vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Do đó, đề nghị sửa đổi Luật TTHC 2015 theo hướng quy định cụ thể về trường hợp này.

11. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

1. Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

2. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm .....

3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại  .....

4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án .....

5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm.....

Như vậy, nếu phần nhận định của Bản án sơ thẩm sai, phần áp dụng quy định pháp luật cũng sai và cần phải sửa nhưng phần quyết định của Bản án sơ thẩm lại đúng, thì tuyên thế nào. Trường hợp này áp dụng khoản 1 hay khoản 2 Điều 241 Luật TTHC 2015. Việc áp dụng khoản 1 hay khoản 2 còn liên quan đến việc tính án phí phúc thẩm đối với Người kháng cáo.

Mặt khác, thực tiễn có trường hợp bác yêu cầu kháng cáo của đương sự nhưng vẫn phải sửa bản án sơ thẩm, ví dụ như sửa phần áp dụng quy định pháp luật... thì Hội đồng xét xử vướng mắc, không biết tuyên thế nào và áp dụng khoản nào của Điều 241 Luật TTHC.

Theo quan điểm của tác giả, Điều 194 Luật TTHC 2015 quy định Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội dung vụ án, phần nhận định và phần quyết định của Tòa án, do đó trường hợp Bản án đúng hoàn toàn thì áp dụng khoản 1 Điều 241 và đề nghị sửa khoản 1 Điều 241 Luật TTHC thẩm quyền của Hội đồng xét xử là giữ nguyên Bản án sơ thẩm, thay vì giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như quy định hiện nay. Nếu Bản án sơ thẩm chỉ đúng phần Quyết định nhưng các phần khác không đúng, vẫn phải sửa để không ảnh hưởng quyền lợi của các đương sự và bảo đảm sự đúng đắn về mặt pháp luật thì Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 241 Luật TTHC và không buộc người kháng cáo phải chịu án phí trong trường hợp này. Đồng thời, đề nghị bổ sung thêm khoản 6 Điều 241 Luật TTHC với nội dung: Bác kháng cáo, kháng nghị nhưng vẫn sửa bản án sơ thẩm theo quy định pháp luật.

12. Về nội dung tuyên tại Bản án phúc thẩm trong trường hợp người bị kiện sửa đổi, hủy bỏ quyết định hành chính

 Tại khoản 1 Điều 235 Luật TTHC 2015 quy định trường hợp người bị kiện sửa đổi, hủy bỏ quyết định hành chính... và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án thì ”trong quyết định của bản án phải ghi rõ cam kết của đương sự để bảo đảm thi hành án hành chính”. Quy định Bản án phải ghi rõ việc cam kết của đương sự là thừa, không cần thiết. Đề nghị bỏ quy định này tại khoản 1 Điều 235 Luật TTHC 2015.

13. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Khoản 2 Điều 260 Luật TTHC 2015 quy định: “Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”. Tuy nhiên, hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền kháng nghị và thẩm quyền giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện có hiệu lực pháp luật nhưng vụ án lại có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Cụ thể như sau:

Vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông Nguyễn A với Người bị kiện là Chủ tịch UBND huyện B đã được TAND tỉnh C giải quyết tại Bản án sơ thẩm X. Sau khi TAND tỉnh C xét xử sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn A thì ông Nguyễn A kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp cao thụ lý và đưa vụ án ra xét xử nhưng sau đó TAND cấp cao đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm theo điểm d khoản 1 Điều 229 Luật TTHC, do ông Nguyễn A (là người kháng cáo) được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, cũng không có đơn xin xét xử vắng mặt.

          Vụ án này, Bản án sơ thẩm X của TAND tỉnh C là Bản án có hiệu lực pháp luật. Theo Khoản 2 Điều 260 Luật TTHC 2015 thì Chánh án TAND cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ kháng nghị theo quy định tại Điều 255 Luật TTHC 2015. Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng vụ án này có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của TAND cấp cao, trong Quyết định đình chỉ có tuyên “Bản án sơ thẩm X của Tòa án nhân dân tỉnh C có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án nhân dân cấp cao ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm”. Vì vậy, mặc dù Quyết đình đình chỉ xét xử phúc thẩm của TAND cấp cao không sai nhưng để bảo đảm giải quyết toàn diện vụ án thì phải kháng nghị cả Quyết định này, nên thuộc thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm/tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

          Theo quan điểm của tác giả, Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm bản chất là Quyết định tố tụng nhằm chấm dứt việc thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, không phải là Quyết định giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm. Vì vậy, khi Tòa án cấp phúc thẩm ra Quyết định đình chỉ thì Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Việc tuyên hiệu lực của Bản án sơ thẩm theo mẫu văn bản ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP là để giải thích cho đương sự rõ về hiệu lực của Bản án sơ thẩm và thuận lợi cho việc tính thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Do đó, đề nghị sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 260 Luật TTHC 2015 theo hướng quy định rõ Chánh án TAND cấp cao có thẩm quyền kháng nghị đối với các Bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ mà có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

14. Về án phí trong trường hợp Người khởi kiện có yêu cầu bồi thường thiệt hại

Điều 7 Luật TTHC 2015 quy định: “Người khởi kiện có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật… gây ra. Khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính, các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết”. Như vậy, Tòa án phải áp dụng đồng thời với Luật TTHC 2015 là các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy định tại các Luật này về án phí lại khác nhau, cụ thể:

- Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định tại Điều 76: “Cơ quan giải quyết bồi thường không thu các khoản án phí, lệ phí và các loại phí khác đối với nội dung yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này”.

- Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Điều 32 khoản 6 quy định: “Người có yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản theo quy định của pháp luật thì phải chịu án phí nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận

Trong vụ án hành chính, người khởi kiện yêu cầu người bị kiện bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính trái pháp luật gây ra với số tiền 2 tỷ đồng. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu bồi thường của người khởi kiện thì người bị kiện có phải chịu án phí hành chính sơ thẩm hay không? Trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu bồi thường của người khởi kiện do không đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu bồi thường thì người khởi kiện có phải chịu án phí hành chính sơ thẩm đối với yêu cầu bồi thường không được chấp nhận hay không? Hoặc trường hợp nào phải chịu, trường hợp nào không phải chịu?

 Đề nghị TANDTC hướng dẫn cụ thể hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định của Luật TTHC 2015 và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để thống nhất hướng giải quyết.

15. Về phiên tòa trực tuyến

Hiện nay, các Tòa án đã triển khai thực hiện xét xử trực tuyến các vụ án hành chính và đây là mô hình xét xử phù hợp với thời đại công nghệ 4.0, qua đó giảm bớt chi phí cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho UBND, Chủ tịch UBND bị khởi kiện tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, việc xét xử bằng hình thức trực tuyến có những điểm khác biệt, đặc thù so với xét xử trực tiếp nên không thể áp dụng tương tự toàn bộ quy định về trình tự phiên tòa xét xử trực tiếp để xét xử trực tuyến. Đề nghị bổ sung vào Luật TTHC 2015 các quy định về trình tự phiên tòa xét xử trực tuyến.

16. Về thụ lý vụ án trong trường hợp người khởi kiện gửi đơn thông qua cổng thông tin điện tử

  Theo quy định tại khoản 3 Điều 119 Luật TTHC 2015 thì người khởi kiện có thể nộp đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thông qua cổng thông tin điện tử của Tòa án. Tuy nhiên, đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện mà người khởi kiện cung cấp theo phương thức gửi trực tuyến sẽ không bảo đảm theo quy định tại Điều 82 Luật TTHC 2015 về yêu cầu “Tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”.

Do đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTHC 2015 quy định cụ thể việc thụ lý đối với trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện thông qua cổng thông tin điện tử theo hướng người khởi kiện phải scan bản chính, bản sao công chứng trên phần mềm scan của Tòa án được cài đặt trên cổng thông tin điện tử và nộp bổ sung tài liệu khi đơn đã được Tòa án thụ lý, giải quyết.

 

TAND tỉnh Bắc Giang tổ chức phiên tòa trực tuyến vụ án hành chính sơ thẩm được số hóa hồ sơ, tài liệu - Ảnh: Lương Bích Hảo

 

TS. TRẦN THỊ QUỲNH (TAND cấp cao tại Hà Nội)