
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính của Trần Văn B đã hết theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Sau khi nghiên cứu bài viết “Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính có bị “mất đi” khi vụ án dân sự bị đình chỉ?” của tác giả Th.s Vũ Thị Thu Hường đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 09 tháng 4 năm 2025, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất.
Tôi cho rằng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã hết thời hiệu khởi kiện 01 năm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, về quy định pháp luật liên quan đến thời hiệu khởi kiện
Theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 01 năm, kể từ ngày cá nhân, tổ chức “nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính”. Đây là quy định mang tính bắt buộc, nhằm đảm bảo tính kịp thời trong việc giải quyết tranh chấp hành chính, đồng thời tránh tình trạng kéo dài, gây ảnh hưởng đến sự ổn định của quan hệ pháp luật. Trong trường hợp hết thời hiệu này mà không có căn cứ pháp lý để gia hạn hoặc loại trừ, yêu cầu khởi kiện sẽ bị từ chối thụ lý hoặc bị đình chỉ nếu đã thụ lý.
Trong vụ việc này, B biết về quyết định hành chính, cụ thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện C cấp cho A vào ngày 15/10/2023, sau khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự “tranh chấp đòi quyền sử dụng đất” do A khởi kiện. Như vậy, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính của B bắt đầu từ ngày 15/10/2023 và kết thúc vào ngày 16/10/2024[1]. Tuy nhiên, B nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính vào ngày 22/01/2025, tức là sau khi thời hiệu 01 năm đã hết hơn 03 tháng. Do đó, nếu áp dụng quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì yêu cầu khởi kiện của B đã hết thời hiệu luật định.
Thứ hai, về vấn đề trở ngại khách quan
Quan điểm thứ hai cho rằng, khoảng thời gian hơn 12 tháng từ ngày 15/10/2023 đến ngày 19/12/2024 – khi vụ án dân sự bị đình chỉ do A rút đơn khởi kiện – là “trở ngại khách quan” theo khoản 3 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015, và do đó không nên tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 156 quy định: “Thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho người có quyền không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu thì thời gian đó không tính vào thời hiệu khởi kiện”. Trở ngại khách quan được hiểu là những tình huống nằm ngoài ý chí và khả năng kiểm soát của người khởi kiện, như thiên tai, dịch bệnh, hoặc các yếu tố pháp lý cản trở việc thực hiện quyền.
Trong vụ việc này, quá trình giải quyết vụ án dân sự kéo dài hơn 12 tháng do Tòa án thực hiện đo đạc, thẩm định, định giá trước khi tổ chức hòa giải. Sau đó, A rút đơn khởi kiện, dẫn đến quyết định đình chỉ vụ án dân sự vào ngày 19/12/2024. Quan điểm thứ hai lập luận rằng, B không khởi kiện vụ án hành chính ngay từ đầu vì tin tưởng yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được xem xét trong vụ án dân sự, và việc kéo dài thời gian tố tụng nằm ngoài khả năng kiểm soát của B. Tuy nhiên, tôi cho rằng lập luận này chưa thực sự thuyết phục.
Trước hết, Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn rõ ràng rằng, trong tranh chấp quyền sử dụng đất, nếu đương sự đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án phải giải quyết trong cùng vụ án dân sự theo Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, yêu cầu của B trong vụ án dân sự không được Tòa án thụ lý vì không phải là yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay yêu cầu khởi kiện riêng. Điều này đồng nghĩa với việc B đã biết hoặc phải biết rằng yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được giải quyết trong vụ án dân sự ngay từ giai đoạn đầu, cụ thể là từ ngày 15/10/2023. Do đó, B hoàn toàn có thể khởi kiện vụ án hành chính riêng biệt ngay sau khi phát hiện quyền lợi của mình bị xâm phạm, thay vì chờ đợi kết quả của vụ án dân sự. Bên cạnh đó, việc Tòa án tiến hành đo đạc, thẩm định, định giá kéo dài hơn 12 tháng không phải là “trở ngại khách quan” cản trở quyền khởi kiện của B trong vụ án hành chính. Đây là hoạt động tố tụng bình thường trong vụ án dân sự, không liên quan trực tiếp đến việc B thực hiện quyền khởi kiện hành chính đối với quyết định của UBND huyện C. Luật Tố tụng hành chính năm 2015 không có quy định nào hạn chế đương sự khởi kiện vụ án hành chính trong khi vụ án dân sự đang được giải quyết, miễn là đáp ứng các điều kiện thụ lý. Do đó, khoảng thời gian hơn 12 tháng này không thể được coi là trở ngại khách quan để loại trừ khỏi thời hiệu khởi kiện.
Thứ ba, về tính hợp lý và mục đích của chế định thời hiệu
Chế định thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính nhằm đảm bảo tính kịp thời và ổn định của quan hệ pháp luật. Nếu chấp nhận quan điểm thứ hai, tức là kéo dài thời hiệu khởi kiện dựa trên việc vụ án dân sự bị đình chỉ, sẽ dẫn đến nguy cơ lạm dụng quy định về trở ngại khách quan, làm mất đi ý nghĩa của thời hiệu luật định. Trong trường hợp này, B đã có đủ thông tin về quyết định hành chính từ ngày 15/10/2023 và có đầy đủ thời gian (01 năm) để khởi kiện vụ án hành chính, nhưng đã không thực hiện. Việc B chờ đợi kết quả vụ án dân sự là lựa chọn chủ quan của B, chứ không phải do pháp luật hoặc hoàn cảnh khách quan cản trở.
Trên cơ sở phân tích nêu trên, tôi cho rằng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính của Trần Văn B phải được xác định theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, bắt đầu từ ngày 15/10/2023, khi B biết về quyết định hành chính và kết thúc vào ngày 16/10/2024. Đơn khởi kiện ngày 22/01/2025 của B đã vượt quá thời hiệu 01 năm. Khoảng thời gian vụ án dân sự được thụ lý và giải quyết không phải là trở ngại khách quan theo khoản 3 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015, vì B có thể và cần phải khởi kiện vụ án hành chính ngay khi biết quyền lợi của mình bị xâm phạm, thay vì phụ thuộc vào kết quả vụ án dân sự.
Việc áp dụng thời hiệu trong trường hợp này không chỉ phù hợp với quy định pháp luật mà còn đảm bảo tính ổn định và minh bạch của hệ thống tố tụng hành chính. Do đó, yêu cầu khởi kiện của B cần bị từ chối thụ lý hoặc đình chỉ nếu đã thụ lý, theo điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[1] Xem thêm Điều 148 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ảnh: Khải Hoàn.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
-
Toà án nhân dân TP. Tam Kỳ tổ chức các phiên Toà rút kinh nghiệm theo hình thức trực tuyến và nhiều phiên Toà trực tuyến trong năm 2025
-
Dự kiến thành lập ba tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao
-
Tòa án nhân dân tối cao đề xuất sửa nhiều luật theo mô hình Tòa án 3 cấp
-
Phát động Cuộc thi báo chí: “Hải Phòng – thành phố thân thiện”
Bình luận