Bàn về áp dụng điều kiện “mất khả năng thanh toán” để yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Luật Phá sản 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) thì “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
Và theo khoản 2 Điều 4 của Luật Phá sản thì: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
Phân tích các quy định trên của Luật Phá sản, chúng tôi xin chia sẻ thêm một góc nhìn thực tiễn trong quá trình tư vấn, giải quyết các vấn đề về yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Như vậy, có thể khẳng định: căn cứ và điều kiện duy nhất để yêu cầu Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Sau khi Luật Phá sản 2014 ban hành cho đến nay, ngoài quy định nêu trên thì không có bất cứ một văn bản luật, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hoặc các văn bản hướng dẫn thêm thế nào là: doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán?
Điều này đã gây ra nhiều lúng túng khi thi hành Luật Phá sản trên thực tế, đặc biệt là việc xác định thế nào là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để các chủ thể (đặc biệt là các chủ nợ) có quyền nộp đơn yêu cầu và để Tòa án có căn cứ thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Bởi vì: Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp đang hoạt động bình thường, có tổng tài sản vượt xa nghĩa vụ thanh toán, có doanh thu phát sinh, có nhiều người lao động đang làm việc… nhưng vẫn có những khoản nợ quá hạn trên 03 tháng đối với các chủ nợ; nếu áp dụng điều kiện cứ nợ quá hạn trên 03 tháng mà chủ nợ vẫn có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn hoạt động và các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các doanh nghiệp.
Như vậy để giải quyết mâu thuẫn giữa thực tiễn và quy định của pháp luật, thì trên thực tế các Tòa án sẽ vận dụng như thế nào để vừa đúng quy định vừa bảo đảm được lợi ích của các bên?
Sau đây, tôi xin phân tích một trường hợp cụ thể đã xảy ra trên thực tế như sau:
Công Ty M có khoản nợ phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa với Công ty K, với khoản nợ là 700 triệu; khoản nợ này và các lịch trình thanh toán đã được các bên xác nhận bằng Biên bản xác nhận công nợ.
Quá thời hạn thanh toán trên 03 tháng, Công ty K đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với Công ty M tại Tòa án án nhân dân TP. H và đã được Tòa án nhân dân TP. H nhận, xem xét đơn.
Sau khi có Biên nhận nhận đơn, yêu cầu mở thủ tục phá sản do Tòa án cấp, Công ty K đã dùng Biên nhận này để làm căn cứ, gửi thông báo cho các đối tác của Công ty M để nhằm làm giảm uy tín của Công ty M và tạo sức ép để Công ty M nhanh chóng trả khoản nợ.
Điều đáng nói, cùng thời điểm Tòa án đang xem xét đơn thì Công ty M đã nộp đơn kiện Công ty K tại một Tòa án khác vì cho rằng Công ty K đang tính sai số nợ phải trả và có các hành vi nhằm bôi nhọ uy tín công ty M.
Sau đó, Công ty M đã có văn bản phản đối đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và gửi cho Tòa án nhân dân TP. H. Bởi vì, Công ty M cho rằng Công ty M đang hoạt động bình thường, vốn và tổng tài sản hiện tại của Công ty M vượt xa so với khoản nợ và các bên cũng đang có các vướng mắc về khoản nợ và hợp đồng kinh tế… Nên không thể cho rằng Công ty M mất khả năng thanh toán để làm căn cứ thụ lý và mở thủ tục phá sản đối với Công ty M được; điều này vô hình chung làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của Công ty M.
Sau khi xem xét đơn và các tài liệu, chứng cứ gửi kèm, Tòa án nhân dân TP. H đã không thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và hướng dẫn các bên khởi kiện tranh chấp hợp đồng kinh tế và nợ vay tại Tòa án có thẩm quyền.
Như vậy, qua tình huống trên, có thể thấy: Hiện nay, việc chỉ quy định mỗi một tiêu chí, điều kiện duy nhất để xác định một doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản (doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán) sẽ không phù hợp với thực tiễn và gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định điều kiện để Tòa án có thể thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Hơn nữa, quy định không rõ điều kiện này sẽ làm cho các chủ nợ lợi dụng để yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp đang có nghĩa vụ nợ, gây những thiệt hại về hình ảnh, uy tín cho các doanh nghiệp như tình huống cụ thể mà chúng tôi đã nêu trên.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất cơ quan có thẩm quyền, cần tổng kết cụ thể các vướng mắc trong thực tiễn từ khi thi hành Luật Phá sản 2014. Từ đó, có hướng sửa đổi các quy định của Luật Phá sản phù hợp với thực tiễn, phát huy hơn nữa vai trò của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp và nền kinh tế.
Bài liên quan
-
Khi doanh nghiệp tư nhân tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo
-
Phiên họp 52 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: Cho ý kiến về một số nội dung của dự án Luật Phá sản (sửa đổi)
-
Mất khả năng thanh toán trong Luật Phá sản: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn từ quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản
-
C.Product - Lợi thế giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh dựa trên dữ liệu
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Một số vấn đề pháp lý về thực hiện thay nghĩa vụ cho người khác
-
Bàn về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Chánh án Nguyễn Văn Quảng: Tòa án nhân dân ba cấp đã nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định, tích cực, thông suốt, hiệu quả
Bình luận