Bàn về sự phân biệt giữa Tòa án và trọng tài
Cho đến nay thì hai phương thức hành nghề - xét xử và trọng tài - được gọi là những sự lựa chọn có thể thay thế trong một tình huống giải quyết tranh chấp. Cái ranh giới của sự pha trộn đó có khi gây ra sự nhầm lẫn và cũng cần được nhìn nhận rõ nét hơn cả về lý luận cũng như thực tiễn.
Kể từ khi trọng tài trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ở nước ta, các học giả nghiên cứu về trọng tài và những người làm công tác thực tiễn thường quan tâm đến những khía cạnh pháp lý giao cắt giữa trọng tài và Tòa án và có quan điểm khác nhau, thậm chí đôi khi còn có nhầm lẫn đáng tiếc trong vị trí, vai trò của 02 cơ quan này.
Hoạt động của Tòa án được xem như quy trình công khai và trọng tài là những thỏa thuận tư. Trong chừng mực nào đó, quy ước này còn thiếu cái mức độ theo đó pháp luật công điều chỉnh những diễn biến của trọng tài và những cách thức mà tòa kết hợp chặt chẽ những thực tiễn hành nghề. Trong khi công và tư – xét từ nhiều nghĩa của những từ này – từ lâu đã trộn lẫn trong Tòa án và trọng tài, sự cân bằng đã được thay đổi, cơ cấu lại lĩnh vực giải quyết tranh chấp và làm giảm sự phân biệt giữa công việc của Tòa án và những nhà dịch vụ cung cấp các giải pháp giải quyết tranh chấp khác.
Một lý do để quan tâm về sự thay đổi pha trộn của công và tư trong cả hai phương thức đó là quyền lực chính trị và sự hợp pháp có tính đạo lý của Tòa án phụ thuộc vào sự phân biệt giữa những khu vực công và tư[1]. Về lý thuyết, thẩm phán là công chức nhà nước, được giao thi hành pháp luật của Nhà nước thông qua quá trình ra quyết định, bản án; trọng tài viên là người sáng tạo các thỏa thuận, có nghĩa vụ thực hiện dự định của các bên đương sự. Sự phân biệt được cho là tôn trọng hiến định và tối ưu hóa phúc lợi, tạo điều kiện cho sự thực thi các quyền công cộng và bảo vệ sự tự quản của các mối quan hệ hợp đồng.
Cho đến nay thì hai phương thức hành nghề – xét xử và trọng tài – được gọi là những sự lựa chọn có thể thay thế trong một tình huống giải quyết tranh chấp. Cái ranh giới của sự pha trộn đó có khi gây ra sự nhầm lẫn và cũng cần được nhìn nhận rõ nét hơn cả về lý luận cũng như thực tiễn.
Tòa án tư pháp và hội đồng trọng tài thường được nhìn nhận thuộc về hai thế giới khác nhau. Sự so sánh giữa hai thiết chế này trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn pháp luật như là những phương thức tương phản trong việc giải quyết tranh chấp, thì ít khi được nhắc tới. Sự thật là những thiết chế này hoàn toàn độc lập với nhau. Khi có tranh chấp, các bên đương sự phải có sự lựa chọn hoặc là phương thức này hoặc là phương thức kia để giải quyết tranh chấp của mình. Tuy nhiên, cũng có những điểm hội tụ giữa hai thiết chế, ví dụ, đó là trong trường hợp sự vô hiệu của phán quyết trọng tài khi mà một bên tranh chấp không thỏa mãn với phán quyết và yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của thủ tục trọng tài dựa trên những cơ sở pháp lý chặt chẽ của các quy định tố tụng dân sự hoặc luật trọng tài. Đó chính là ví dụ rõ ràng nhất của việc phân biệt thẩm quyền giữa Tòa án và trọng tài.
Nhà nước là quyền lực quá lớn để quyết định những giao dịch dân sự, thương mại. Để quyết định những bất đồng, tranh chấp dân sự, thương mại của cá nhân hoặc tổ chức, việc sử dụng quyền lực công của Nhà nước vừa tốn kém thời gian, tiền của, lại không phù hợp với tính chất của giao dịch dân sự, thương mại. Vì thế, người ta mới sử dụng đến một giải pháp thay thế đó là trọng tài vì nó tiện lợi hơn. Trọng tài phục vụ giá trị cơ bản của sự hợp tác, tự quản và làm giảm gánh nặng của quyền lực nhà nước. Tự do thỏa thuận và hợp tác là những quyền dân sự cơ bản của công dân ở bất cứ đất nước nào. Khi các bên rơi vào bất đồng, tranh chấp, họ có quyền tự do thỏa thuận thế nào là công bằng cho họ. Khi họ muốn hợp tác, thỏa thuận, thì mong muốn giữa họ là công bằng, hiệu quả và tự giải quyết vấn đề riêng của họ. Họ có quyền sử dụng nguồn quyền lực ràng buộc họ và chọn người phân giải và trao cho họ quyền quyết định. Đó là mục đích và giới hạn để Nhà nước xác định để can thiệp hay không can thiệp vào các hoạt động của trọng tài. Nếu mục đích, ý chí tự do thỏa thuận hợp đồng của các bên đạt được và giới hạn đó không bị vượt qua thì Nhà nước cần tạo mọi điều kiện hỗ trợ để giúp thỏa thuận đó đi tới thành công. Ngược lại, nếu trọng tài viên không tuân thủ thỏa thuận, đi ngược lại lợi ích và ý chí của các bên cũng như khi không tuân thủ giới hạn công bằng, khách quan mà pháp luật đặt ra thì Tòa án phải can thiệp để đạt được ý chí của các bên đương sự liên quan. Khi trọng tài viên không áp dụng đúng pháp luật thì Tòa án tư pháp cần phải xem xét lại để bảo đảm công lý và lợi ích cho các bên có tranh chấp.
Sự giống nhau duy nhất và về hình thức đó là Tòa án và trọng tài đều là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại và tranh chấp khác theo pháp luật quy định. Thẩm phán và trọng tài viên đều là những người vận dụng pháp luật giúp các bên giải quyết các vấn đề tranh chấp của họ theo thẩm quyền. Họ đều dựa vào trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên có liên quan và vận dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc tranh chấp. Tuy nhiên, có rất nhiều điểm khác nhau giữa họ xét về vai trò, vị trí, tiêu chuẩn, công việc mà họ làm và trình tự thủ tục mà họ tiến hành để giải quyết tranh chấp theo thẩm quyền.
Để làm rõ hơn mối quan hệ đó, chúng ta hãy điểm lại một số khác nhau của các thiết chế này.
1. Điều 102, Hiến pháp năm 2013 khẳng định chỉ Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án khác do luật định là những cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Quy định này phù hợp với việc phân công thực hiện quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quyền tư pháp được cụ thể hóa tại khoản 2, 3 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, theo đó Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
Liên quan đến thẩm quyền xét xử tranh chấp mà cả Tòa án và trọng tài đều có thẩm quyền giải quyết theo quy định pháp luật, thông thường, nếu các bên không có điều khoản quy định về giải quyết tranh chấp, thì Tòa án có thẩm quyền đương nhiên, đặc biệt là đối với các tranh chấp thương mại trong nước. Còn thẩm quyền của trọng tài còn phụ thuộc vào yêu cầu và thỏa thuận của các bên có tranh chấp.
Xét từ góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp thì cả xét xử và trọng tài đều mang tính tài phán, nhưng ngay trong yếu tố tài phán này đã có sự khác nhau cơ bản về bản chất.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Còn phán quyết của trọng tài viên, tự nó, chỉ có tính ràng buộc đối với các bên. Nếu bên tham gia trọng tài thua cuộc không tự nguyện thi hành phán quyết, thì phải cần đến sự can thiệp của Tòa án với quyền lực công để được thi hành.
Pháp luật các nước phát triển trên thế giới đều quy định chức năng của trọng tài là giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại thể theo yêu cầu của các bên có tranh chấp và không có chức năng “công” nào khác. Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, khi phân biệt vai trò của Tòa án và trọng tài, chúng ta chỉ có thể xuất phát từ góc độ là phương thức giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại. Bởi lẽ, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp “tư”, là một phương thức thay thế cho Tòa án trong những phạm vi và lĩnh vực nhất định. Phạm vi và lĩnh vực đó do pháp luật quy định[2].
Xuất phát từ thẩm quyền được quy định trong thỏa thuận tư, hoạt động bên ngoài cơ chế thống nhất của Tòa án và theo một cách thức tin cậy nhất, các trọng tài viên thường không được giao phó sứ mệnh “công” để hướng dẫn các bên tranh chấp, để bảo vệ lợi ích công cộng, hoặc tham gia vào sự phát triển của hệ thống pháp luật. Trọng tài viên là một bên thứ ba trung lập nghe ý kiến các bên và quyết định tranh chấp của các bên ở bên ngoài Tòa án.
Thẩm phán độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Trọng tài viên cũng phải tuân theo pháp luật và nhưng phải luôn tôn trọng thỏa thuận của các bên. Việc không tôn trọng thỏa thuận của các bên có thể dẫn đến sự vô hiệu của phán quyết trọng tài.
Thẩm quyền đương nhiên của thẩm phán theo luật định là không thể tranh cãi, trong khi trọng tài viên thì hay phải đối diện với việc bị thách thức về thẩm quyền. Ví dụ, bên bị đơn trong vụ việc trọng tài thường tìm cách để bác bỏ thẩm quyền của hội đồng trọng tài vì nhiều lý do khác nhau. Bên bị đơn thường tìm cách để có thể nại rằng chưa bao giờ có một thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Bị đơn cũng có thể nại rằng người ký kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền hoặc tranh chấp không được phép trọng tài… Khi trọng tài phải đối mặt với những sự thách thức đó, cho dù là không đích thực, thì trọng tài viên cũng phải co lại và tìm cách che đỡ cho hoàn cảnh không thể tự lo liệu được của nguyên đơn. Vì lẽ đó, hội đồng trọng tài được giao quyền quyết định thẩm quyền (thẩm quyền của thẩm quyền) của mình cho đến khi sự việc được làm rõ.
Có thể nói, quá trình trọng tài luôn bị thách thức ngay từ đầu, trong quá trình trọng tài, cho đến khi kết thúc và ra phán quyết trọng tài. Lord Mustil, một chuyên gia phương Tây, đã ví von mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài như “cuộc chạy tiếp sức” khi mà chiếc gậy nằm trong tay Tòa án và sự hỗ trợ của Tòa án là luôn luôn cần trong suốt cả quá trình trọng tài. Chiếc gậy đó được trao kể từ khi trọng tài viên chấp nhận giải quyết vụ việc, trọng tài viên nhận chiếc gậy và giữ nó cho đến khi ra phán quyết trọng tài. Đến lúc này, trọng tài viên làm hết chức năng của mình và trao gậy lại cho Tòa án để khi cần thiết thì Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài bằng quyền lực công[3] (nếu các bên không tự nguyện thi hành – TG).
Về bản chất, trọng tài không phải là cơ quan công quyền, mà chỉ là tổ chức xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo sự “trao quyền” của các bên trên cơ sở quy định của pháp luật. Nói là trao quyền là bởi vì, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật, trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp phải tuân thủ thỏa thuận của các bên có tranh chấp mà việc không tuân thủ cả hai khía cạnh này đều có thể dẫn đến làm hỏng việc trọng tài. Tòa án thì hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đặc trưng “tư” và hoạt động trong khuôn khổ thỏa thuận của các bên khiến cho trọng tài khác hoàn toàn với yếu tố “công”. Điều khác biệt cơ bản nhất ở đây là trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên như Tòa án mà thẩm quyền của họ được xác lập theo một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận theo quy định của Luật Trọng tài thương mại. Không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc trọng tài.
Ở đây cũng cần phải nói thêm rằng, thẩm quyền của trọng tài thường phụ thuộc vào hai yếu tố: Mức độ quyền tự quản của các bên tranh chấp và quy định pháp luật quốc gia. Dù pháp luật các nước khác nhau có thể quy định thẩm quyền trọng tài rộng, hẹp khác nhau đi chăng nữa thì cũng không làm thay đổi bản chất thẩm quyền “công”, “tư” nói trên.
2. Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp do các trọng tài viên (hoặc không có) trong danh sách của các trung tâm trọng tài hoặc các hiệp hội hành nghề tự thành lập ra, tiến hành trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật. Trọng tài viên không hưởng lương từ ngân sách nhà nước và cũng không hưởng lương từ các tổ chức trọng tài mà chỉ được nhận thù lao từ các bên đương sự có yêu cầu cho công việc trọng tài. Các trọng tài viên thường là những người hoạt động kiêm nhiệm, chủ yếu làm việc trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể liên quan đến tranh chấp mà các bên đương sự cần để giải quyết cho tranh chấp của họ.
Việc chỉ định trọng tài viên là theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Bằng thỏa thuận trọng tài, các bên tranh chấp chỉ định ai mà họ thấy có khả năng để giải quyết tranh chấp cho họ. Họ có thể chỉ định một trọng tài viên duy nhất hoặc nhiều trọng tài viên. Trong mọi trường hợp, việc chỉ định trọng tài viên, trước hết và luôn luôn phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của các bên. Chỉ khi không thể chọn được thì họ mới nhờ cậy vào tổ chức trọng tài hoặc Tòa án.
Xem xét các tiêu chuẩn để được làm trọng tài viên, chúng ta có thể thấy sự cởi mở hơn đối với các tiêu chuẩn đặt ra đối với thẩm phán, đó là: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự; có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 05 năm trở lên; trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu đó, cũng có thể được chọn làm trọng tài viên (Điều 20 Luật Trọng tài thương mại).
Hơn thế nữa, tiêu chí để làm trọng tài viên còn nhằm phục vụ một mục đích rất rõ ràng đó là lợi ích trực tiếp của các bên có tranh chấp thay vì lợi ích công cộng vì rằng khi lợi ích công cộng có nguy cơ bị tổn hại xuất phát từ đó thì luôn có Tòa án ở bên cạnh can thiệp để bảo đảm công bằng và công lý.
Để đáp ứng mục đích đó, pháp luật quy định một số người nhất định không được làm trọng tài viên. Trước tiên là những người có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp vào vấn đề tranh chấp hoặc với các bên tranh chấp. Tiếp theo đó, những người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích thì rõ ràng là không được làm trọng tài viên… Những người đang là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án lại không được làm trọng tài viên vì họ là công chức đang thực thi công vụ của nhà nước giao cho. Sự loại trừ đó thể hiện một sự khác nhau cơ bản trong vị trí, vai trò của trọng tài viên với các chức danh tư pháp nói chung và thẩm phán nói riêng.
Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được bổ nhiệm theo luật định. Cụ thể: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm, thẩm phán các Tòa án địa phương và tương đương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Thành phần của hội đồng xét xử cũng phải theo luật định… Do hoạt động xét xử của thẩm phán có tính chuyên môn cao, đòi hỏi sự cẩn trọng, trách nhiệm nặng nề; thẩm phán cần được lựa chọn một cách kỹ lưỡng, cẩn thận, bảo đảm đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức để có thể đảm đương tốt nhiệm vụ. Pháp luật của mỗi quốc gia đều có những quy định chặt chẽ về thẩm phán, nhất là tiêu chuẩn và quy trình tuyển chọn thẩm phán. Trong đó, theo quy định của pháp luật Việt Nam, muốn làm thẩm phán thì một trong những điều kiện quan trọng nhất đó là trình độ, năng lực nghiệp vụ pháp luật và kinh nghiệm xét xử tương ứng với điều kiện đặt ra đối với từng cấp thẩm phán: Sơ cấp, trung cấp, cao cấp và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Theo quy định tại Điều 67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, thẩm phán phải là “1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. 2. Có trình độ cử nhân luật trở lên. 3. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử. 4. Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật. 5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Người được bổ nhiệm thẩm phán, ngoài việc đáp ứng những tiêu chuẩn như trên còn phải có thêm điều kiện là đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn thẩm phán.
Trọng tài viên không nhất thiết phải có đầy đủ các tiêu chuẩn này như thẩm phán.
3. Thẩm phán không chỉ làm nhiệm vụ xét xử mà còn phải thực hiện các chức năng công khác. Tòa án còn có các quyền khác như xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của các bên tham gia tố tụng khác như điều tra viên, kiếm sát viên, luật sư;… xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền; các quyền khác theo quy định của luật tố tụng; xử lý vi phạm hành chính. Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Ngoài ra, Tòa án thực hiện quyền hạn khác theo quy định của luật. Việc Hiến pháp quy định giao cho Tòa án nhân dân tối cao thẩm quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 104) cũng là bảo đảm quan trọng trong hoạt động của Tòa án, phù hợp chức năng áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp. Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 12 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân). Ví dụ, Tòa án có thẩm quyền trong việc điều chỉnh hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi cơ bản (quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi) theo điểm b khoản 3 Điều 420 của Bộ luật Dân sự. Đây là một chức năng công của Tòa án xuất phát từ quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Trọng tài không có nhiệm vụ này[4]. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thẩm phán có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan, tổ chức và công dân có trách nhiệm tạo điều kiện để thẩm phán, hội thẩm làm nhiệm vụ. |
Những nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thẩm phán không chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật nội dung và tố tụng mà còn những quy định về cán bộ, công chức. Ví dụ: Thẩm phán không được làm những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm; không được tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật… |
Thẩm phán là công chức, nên được hưởng những quyền lợi của công chức. Ngoài ra, do vị trí đặc thù, thẩm phán được hưởng những quyền lợi đặc biệt như: Thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm và các phụ cấp khác do pháp luật quy định; thẩm phán được cấp trang phục, giấy chứng minh thẩm phán để làm nhiệm vụ. Mẫu trang phục, chế độ cấp phát và sử dụng trang phục, giấy chứng minh thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Trọng tài viên là người hành nghề tư, thuộc một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, làm việc theo yêu cầu của các bên đương sự có tranh chấp kinh doanh thương mại và được nhận thù lao cho công việc đó. Quyền hạn và nghĩa vụ của trọng tài viên căn cứ vào thỏa thuận trọng tài và quy định pháp luật nhưng xuất phát điểm là thỏa thuận trọng tài. Đó là thỏa thuận tư giữa các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Trọng tài viên không được phép thay đổi các điều khoản của thỏa thuận trọng tài. Trọng tài viên làm việc theo sự ủy quyền của các bên có liên quan và không được phép vượt quá giới hạn phạm vi quyền hạn mà các bên giao theo thỏa thuận của họ. Nếu vượt quá thẩm quyền đó thì phán quyết được đưa ra sẽ bị hủy và không được công nhận và thi hành. 4. Ở một khía cạnh khác, trong khi Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự theo thẩm quyền hoặc kể cả vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (Điều 14 Bộ luật Dân sự năm 2015), thì trọng tài viên có quyền “chấp nhận hoặc từ chối giải quyết tranh chấp” (Điều 21 Luật Trọng tài thương mại). Việc trọng tài viên có quyền từ chối giải quyết tranh chấp cho thấy rõ bản chất tự nguyện trong mối quan hệ giữa trọng tài viên với các bên tranh chấp. Đây là mối quan hệ giao dịch dân sự giữa các bên với nhau, khác với mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, theo đó, Nhà nước (thông qua Tòa án) có nghĩa vụ công phải bảo vệ công lý, quyền con người nói chung và quyền, lợi ích của các bên nói riêng mà trọng tài viên thì không có sứ mệnh đó. Với quyền hạn và nghĩa vụ xuất phát từ thỏa thuận trọng tài của các bên, bản chất của hoạt động trọng tài viên là dịch vụ có thù lao, nhưng là một dịch vụ đặc thù vì được pháp luật trao một số quyền hạn nhất định trong việc vận dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp cho các bên khi có yêu cầu và công việc đó được ví như là “thẩm phán tư”. Đây chính là sự khác nhau cơ bản giữa “thẩm phán công” và “thẩm phán tư”. 5. Xuất phát từ bản chất “công”, “tư” nói trên, hoạt động tố tụng của Tòa án và trọng tài có nhiều điểm khác nhau. Trước tiên, hoạt động xét xử của Tòa án phải qua các cấp xét xử khác nhau, từ cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm. Ngoài ra, bản án đã có hiệu lực pháp luật còn có thể được xem xét lại ở cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu phát hiện có sai lầm. Còn trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp ở một lần duy nhất. Đây là điểm khác nhau rất cơ bản. Điểm khác nhau về tố tụng tiếp theo đó là do việc xét xử của Tòa án mang tính nghi thức nên việc áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về địa điểm và chứng cứ nói riêng là rất chặt chẽ. Tòa án xét xử ở nơi công khai, (thông thường tại phòng xét xử của Tòa án). Ngược lại, do không mang tính nghi thức nên địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn hoặc sẽ do các bên thỏa thuận hoặc nếu không có thỏa thuận thì do Hội đồng trọng tài quyết định. Thông thường, theo yêu cầu của một hoặc các bên, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hoặc trực tiếp thu thập chứng cứ, tài liệu trong những trường hợp mà cho là cần thiết để làm rõ sự thật. Đối với những chứng cứ liên quan đến người thứ ba, trọng tài viên không có quyền ra lệnh cho họ cung cấp chứng cứ, nên khi gặp khó khăn, trở ngại trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, việc triệu tập người làm chứng, thì theo luật quy định, trọng tài có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ. Trong trường hợp đó, theo quy định tại Điều 414 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền: Thu thập chứng cứ hoặc triệu tập người làm chứng với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước hỗ trợ cho trọng tài hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, cũng còn có sự khác nhau trong việc tham gia của luật sư vào tố tụng, thời gian tố tụng và chi phí tố tụng của Tòa án và trọng tài. 6. Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có những điểm ưu việt so với xét xử. Tuy nhiên, cũng không nên quá đề cao trọng tài vì trọng tài cũng có những mặt bất lợi. Do vậy, trước khi có tranh chấp, các bên đương sự cần cân nhắc thật kỹ nên chọn phương thức nào. Ngay cả ở những nước có trình độ phát triển cao về trọng tài, đã có những quan điểm ưa chuộng lựa chọn xét xử của Tòa án đối với một số loại tranh chấp, cụ thể là với các tranh chấp trong lĩnh vực bất động sản, vì một số lý do sau đây: – Khi chọn trọng tài, các bên phải nghĩ ngay đến việc thanh toán thù lao cho trọng tài như luật sư trên cơ sở tính theo giờ. Như vậy, họ phải tính đến một khoản chi phí tăng thêm. Ngược lại, các bên tranh chấp không phải trả tiền cho thẩm phán mà chỉ trả tiền án phí theo mức đã quy định. – Khi ra tòa, các bên đương sự tự giải quyết tranh chấp với nhau thì cũng không phải thanh toán cho Tòa án. Khi đó, thẩm phán sẽ nói lời chúc mừng và cảm ơn các bên vì họ đã tự tìm cách giải quyết việc của họ mà không phải sử dụng thời gian quý giá mà Tòa sẽ dành cho họ. Trường hợp đó trong việc trọng tài thì vẫn phải thanh toán chi phí cho những ngày đã lên lịch mà trọng tài viên bỏ thời gian tham gia vì hầu hết phí trọng tài là dịch vụ không hoàn lại (dự phí) hoặc hoàn lại một tỉ lệ thấp. – Như trên có đề cập, việc trọng tài sẽ dẫn đến kết quả của một phán quyết cuối cùng và không được kháng cáo. Điều đó cũng có tính hai mặt. Mặt tích cực là tranh chấp sẽ được giải quyết dứt điểm cho các bên mà không phải “dây dưa”. Nhưng mặt khác, cũng phải tính đến trường hợp khi trọng tài viên từ chối áp dụng một số quy tắc chặt chẽ của pháp luật, chứng cứ hoặc tùy nghi ra một phán quyết mà các bên không có cách gì để phản kháng nó vì đã phó thác cho trọng tài viên quyền đó. – Tòa án rất chuyên nghiệp trong quy định và thủ tục vì thế có bề dày kiến thức và kinh nghiệm để có thể giúp đương sự biết được thắng kiện ở mức độ chính xác, rõ ràng hơn. Trọng tài viên thì có thể tùy nghi áp dụng hay không áp dụng các quy tắc chặt chẽ của pháp luật chẳng hạn như quy định về chứng cứ hoặc không áp dụng các án lệ, tiền lệ pháp – là một trong những kho tàng kinh nghiệm tích lũy từ bao đời trong lập pháp và xét xử. – Cuối cùng, thắng hay thua vụ kiện thì sau khi trọng tài kết thúc, bên thắng cuộc vẫn phải làm đơn đến Tòa để đề nghị công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài và để làm đơn đến Tòa thì vẫn phải thanh toán án phí cho việc đó. |
[4] Trong quá trình dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2015, đã có ý kiến đề xuất bổ sung thẩm quyền này, thậm chí còn thêm một số chức năng công khác cho trọng tài, nhưng đã không được chấp thuận.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự - Vướng mắc và kiến nghị
-
Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc hay tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Tòa án thụ lý đơn khởi kiện sau khi Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật
-
Không nhất thiết phải đề cập đến “tờ vé số có phải là tài sản hay không”
Bàn về dự thảo Án lệ số 08/2024/AL
Bình luận