Bàn về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự Quân đội

(TCTA) - Trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, thì Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân Việt Nam giữ một vị trí đặc biệt, vừa mang tính chất là cơ quan tiến hành tố tụng, vừa hoạt động trong môi trường quân sự có kỷ luật, tổ chức và tính bảo mật cao. Thẩm quyền điều tra của cơ quan này không chỉ gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn trong nội bộ Quân đội, mà còn phản ánh rõ đặc thù của mô hình tư pháp quân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên cơ sở kế thừa quy định hiện hành và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dự thảo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi)1, đặc biệt là tại khoản 2 Điều 21 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm làm rõ về phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự Quân đội. Việc nhận diện và phân tích thẩm quyền này không chỉ góp phần bảo đảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong Quân đội, mà còn có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống Cơ quan điều tra hình sự phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Khoản 2 Điều 21 dự thảo Luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương như sau: “Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XXV Bộ luật Hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự Quân khu và tương đương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự khu vực nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra”.

Theo như dự thảo, thì thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương được thu gọn và giới hạn bởi các tội phạm quy định tại Chương XXV Bộ luật Hình sự, đó là các tội “xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu”. Xét về mặt cơ sở lý luận cũng như thực tiễn thi hành pháp luật trong nhiều năm qua, chúng tôi không đồng ý điều này, việc để các Cơ quan điều tra ngoài Quân đội tiến hành điều tra các loại tội phạm liên quan đến Quân đội là hoàn toàn không phù hợp và khả thi bởi những lý do như sau:

Thứ nhất, xuất phát từ việc bảo vệ về bí mật công tác quân sự.

Bảo vệ bí mật công tác quân sự là một nội dung cơ bản của công tác bảo vệ an ninh Quân đội, có tính chất, vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm an ninh, an toàn cho các hoạt động của toàn quân, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bí mật công tác quân sự đó được thể hiện ở việc tổ chức hoạt động của các quân binh chủng, của cơ cấu tổ chức lực lượng, vũ khí, trang bị,… Với tính chất, vai trò đặc biệt quan trọng đó, việc để lộ, lọt bí mật công tác quân sự sẽ có nguy cơ rất lớn ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, trong hoạt động điều tra, giải quyết vụ án thì chỉ Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội mới có thể thực hiện tốt công tác này. Bên cạnh đó, bí mật công tác quân sự là còn là một yêu cầu, đòi hỏi rất cao, quyết định đến sự thành bại của một chiến lược, chiến thuật quân sự và cao hơn nữa là sự tồn vong của Tổ quốc. Bí mật công tác quân sự không chỉ là khách thể của tội phạm mà còn liên quan rất chặt chẽ với thủ tục tố tụng hình sự, nhất là khả năng điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm. Do đó, một vụ án do quân nhân hoặc người ngoài Quân đội phạm tội liên quan đến Quân đội nhưng quá trình điều tra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến yếu tố bí mật công tác quân sự. Cụ thể là Danh mục bí mật quân sự được Nhà nước ta xác định rất đa dạng như: địa điểm đóng quân; phiên hiệu đơn vị, mật danh đơn vị; những số liệu về quân số, vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự, các tài liệu liên quan đến kế hoạch tác chiến, tình báo quân sự, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu;… đều là những vấn đề thuộc bí mật quân sự, nên không thể bất kỳ ai cũng được tiếp cận hoặc muốn ra vào khu quân sự cũng được, kể cả việc thu thập chứng cứ, tài liệu, khám nghiệm hiện trường khi vụ án có liên quan đến bí mật công tác quân sự. Và thậm chí trong Quân đội, một số cơ quan, đơn vị trọng yếu chứa đựng nhiều nội dung cơ mật liên quan đến bí mật công tác quân sự, bí mật quốc gia thì cũng chỉ cho phép một số cá nhân thuộc cơ quan, đơn vị nhất định trong Quân đội mới được phép tiếp cận. Điều đó khẳng định chỉ những người có nhiệm vụ đặc biệt và cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội mới được tiến hành các hoạt động tố tụng trong những đơn vị đặc thù nói trên khi có vụ việc xảy ra, nên nếu để Cơ quan điều tra hình sự ngoài Quân đội thực hiện các hoạt động đó thì không có cơ sở nào tiến hành được.

Thứ hai, từ tầm quan trọng của khách thể cần bảo vệ, đó là kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội.

Khách thể quan trọng nhất mà các Cơ quan điều tra trong Quân đội cũng như Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự các cấp phải tập trung bảo vệ đó là kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Sức mạnh chiến đấu là sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng tổng hợp, đó là lực lượng thường trực đang phục vụ trong Quân đội, lực lượng dự bị động viên, cũng như trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, cơ sở vật chất bảo đảm cho Quân đội chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu; chiến thuật, kỹ thuật, trình độ chỉ huy, trình độ quản lý, bản lĩnh chính trị; các yếu tố thuộc về tâm lý, thể chất của người quân nhân. Trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử của đất nước ta, thì việc giữ gìn kỷ luật, pháp luật trong Quân đội trên hết là nhằm bảo vệ sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu kịp thời phục vụ công tác điều tra, xử lý các vụ án trong Quân đội được nhanh chóng, khách quan và toàn diện.

Công tác điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, truy dấu vết của tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra được nhanh chóng, khách quan, toàn diện và đầy đủ, thì chỉ có những Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội mới có thể thực hiện được. Bởi vì, Quân đội là tổ chức chiến đấu rất chặt chẽ, có cơ chế chỉ huy tập trung, thống nhất để xử lý với mọi hoàn cảnh rất khẩn trương, cơ động nhanh trong chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức Quân đội gồm nhiều đơn vị từ các lực lượng thường trực như Quân, Binh chủng đóng quân trên khắp mọi miền đất nước, ở biên giới, hải đảo xa xôi, vùng sâu, vùng xa, vùng cách biệt với dân cư và chính quyền địa phương. Do đó, khi vụ án xảy ra, thì chỉ có các Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội mới có đủ các điều kiện cần thiết để kịp thời điều tra, xử lý nhanh chóng vụ án để phục vụ nhiệm vụ quân sự của cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ chính trị trên địa bàn đóng quân.

Thứ tư, từ yêu cầu để bảo đảm về sự lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Như chúng ta đã biết, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là nguyên tắc được tồn tại suốt hơn 80 năm qua. Bộ Chính trị, Ban Bí thư mà trực tiếp là Quân uỷ Trung ương phải nắm chắc tình hình chấp hành kỷ luật, pháp luật trong Quân đội và chất lượng đội ngũ cán bộ để có biện pháp giáo dục, quản lý, khắc phục kịp thời những tồn tại nhằm xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Để nắm được những nội dung trên thì các cơ quan bảo vệ pháp luật phải kịp thời tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tội phạm trong Quân đội để báo cáo Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng. Cụ thể phải báo cáo rõ tội phạm do cán bộ Quân đội gây ra thuộc diện quản lý của Quân uỷ Trung ương về tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra cho Quân đội. Do vậy công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong Quân đội và giải quyết các vụ án phải do Quân đội và các Cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội giải quyết.

Thứ năm, xuất phát từ việc ngăn chặn, đẩy lùi sự chống phá của các thế lực thù địch.

Từ lịch sử cho đến hiện tại và cả tương lai, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn nuôi dưỡng ý đồ tìm cách phá hoại Quân đội, hoặc đưa ra những luận điểm, quan điểm mập mờ như: Quân đội không có gì khác biệt so với các Bộ, Ngành khác để lập luận thu hẹp thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các Cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội, thậm chí chưa hiểu biết nhiều về Quân đội nên đã nêu quan điểm chưa phù hợp, đó là “không cần tổ chức các cơ quan tư pháp Quân đội”, để rồi từng bước vô tình làm suy yếu Quân đội trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc, tiến tới phi chính trị hoá Quân đội. Do vậy, việc củng cố và tăng cường các thiết chế quân sự, chính trị, trong đó có các cơ quan tư pháp Quân đội là đặc biệt cần thiết trong tình hình hiện nay. Có như vậy mới tăng cường công tác pháp chế, đấu tranh chống diễn biến hoà bình, phòng chống tội phạm, bảo vệ Quân đội là lực lượng tin cậy, chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ sáu, từ yêu cầu trình độ, kiến thức của cán bộ tư pháp trong Quân đội.

Việc điều tra, truy tố, xét xử trong Quân đội thực tiễn đã chứng minh là phải có những người không chỉ am hiểu về pháp luật mà còn cần phải nắm vững được những kiến thức về hành chính quân sự, về quốc phòng, về môi trường quân đội,... Do vậy, người hội tụ đủ về các tiêu chí đấy chỉ có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong Quân đội. Mặt khác, người có trình độ cử nhân luật nhưng để được bổ nhiệm làm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong Quân đội thì phải là sĩ quan Quân đội, phải được đào tạo qua các trường trong Quân đội và phải có một thời gian công tác ở các đơn vị cơ sở mới được tuyển chọn. Đội ngũ Điều tra viên nói riêng, các cơ quan tư pháp trong Quân đội nói chung hiện nay và lâu dài cần bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thứ bảy, từ kết quả điều tra, truy tố, xét xử trong nhiều thập kỷ qua.

Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong nhiều thập kỷ qua cho thấy ở bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, dù thời chiến cũng như thời bình, ngoài các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, các tội liên quan đến bí mật quân sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự các cấp đều giải quyết đối với những vụ án mà bị cáo là quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng phạm tội; những vụ án liên quan đến bí mật và gây thiệt hại cho Quân đội. Lịch sử lập hiến, lập pháp nước ta luôn khẳng định sự cần thiết phải có một hệ thống cơ quan tư pháp chuyên trách để thực hiện thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử theo đúng pháp luật của Nhà nước ở lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Lịch sử đã chứng minh, việc để các Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội điều tra các vụ án như hiện nay là các tội phạm do quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng gây ra và những người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho Quân đội đã ổn định, phù hợp cả với lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Cụ thể trong các Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội chưa có vụ án nào oan sai, không để xảy ra tiêu cực, không có vụ án nào gây bức xúc dư luận. Nhiều vụ án lớn, điển hình, đặc biệt nghiêm trọng thuộc diện theo dõi, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, như vụ án Đinh Ngọc Hệ; vụ án Nguyễn Văn Hiến; vụ án Nguyễn Văn Sơn; vụ án Trần Văn Đồng; vụ án Nguyễn Thế Anh,… đã được các Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội tiến hành điều tra một cách nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ, kịp thời, đáp ứng rất tốt cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của Lực lượng vũ trang.

Thứ tám, từ vấn đề Tòa án quân sự xét xử trong địa bàn thiết quân luật phản ánh vai trò tư pháp quân sự ở tình huống khẩn cấp quốc gia.

Việc áp dụng thiết quân luật chỉ được thực hiện trong tình trạng an ninh - quốc phòng đặc biệt nghiêm trọng. Khi áp dụng thiết quân luật, quyền điều hành về hành chính, tư pháp và an ninh được chuyển giao cho lực lượng Quân đội. Điều 23 Hiến pháp năm 2013 quy định: Trong tình trạng khẩn cấp hoặc thiết quân luật, có thể hạn chế một số quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật”.Căn cứ này cho phép áp dụng thiết quân luật và trao thẩm quyền đặc biệt cho cơ quan nhà nước, trong đó có thể bao gồm cả Tòa án quân sự. Khoản 2 Điều 22 Luật Quốc phòng năm 2018 quy định: “Trong thời gian thiết quân luật, lực lượng vũ trang nhân dân được giao quyền hạn nhất định để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội”. Trong bối cảnh này, Tòa án quân sự - là cơ quan thuộc hệ thống lực lượng vũ trang - có thể được giao quyền tài phán mở rộng, xét xử cả người không thuộc Quân đội, khi phạm tội trên địa bàn thiết quân luật. Do đó, nếu khoản 2 Điều 21 Dự thảo Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn “Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XXV Bộ luật Hình sự…” thì sẽ không có cơ sở pháp lý để các Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội tiến hành điều tra các vụ án hình sự trong thời gian thiết quân luật.

Như vậy, từ những nội dung phân tích trên, chúng tôi cho rằng, việc để các cơ quan điều tra ngoài Quân đội tiến hành điều tra các loại tội phạm liên quan đến Quân đội là không phù hợp cả về nguyên tắc tổ chức, thực tiễn hoạt động lẫn yêu cầu bảo vệ bí mật quốc phòng, an ninh quân sự. Tội phạm xảy ra trong Quân đội thường gắn với đặc thù về tổ chức, kỷ luật, tính chất nhiệm vụ, cũng như môi trường hoạt động khép kín, có tính chất bảo mật rất cao. Do đó, chỉ có Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội - với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu, am hiểu hệ thống tổ chức và chế độ hoạt động quân sự - mới đủ điều kiện thực hiện hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm trong Quân đội. Vì vậy, việc để cơ quan điều tra ngoài Quân đội tham gia điều tra các vụ án liên quan đến Quân đội sẽ tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm tính độc lập, thống nhất chỉ huy trong Quân đội, làm suy giảm hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan tố tụng quân sự, và thậm chí đe dọa tính bảo mật thông tin quân sự - vốn là yêu cầu tối quan trọng trong bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc gia. Do đó, chúng tôi kiến nghị cần giữ vững nguyên tắc phân định thẩm quyền điều tra theo tính chất lực lượng, bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự Quân đội được độc lập điều tra toàn bộ các vụ án có liên quan đến Quân đội, nhằm bảo đảm hiệu quả, khách quan, đúng pháp luật và phù hợp với đặc thù của nền tư pháp quân sự trong điều kiện hiện nay.

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG - HOÀNG THÙY LINH (TAQS Quân khu 7)

1 Dự thảo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự (sửa đổi), https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Lists/ChiDaoDieuHanh/Attachments/4881/D%E1%BB%B1%20th%E1%BA%A3o%20Lu%E1%BA%ADt.pdf, truy cập ngày 15/4/2025.

Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng bắt đối tượng truy nã quốc tế (ảnh minh họa - nguồn ảnh Báo Nhân dân).