Cần phải xử lý B  về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Qua nghiên cứu bài viết “Người trộm cắp tài sản dưới 16 tuổi thì người tiêu thụ tài sản có phải chịu trách nhiệm hình sự không?” của tác giả Nguyễn Thị Kim Phượng đăng ngày 07/3/2024, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất của tác giả.

Thứ nhất, hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn A là hành vi phạm tội

Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

“ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

Như vậy, nếu người phạm tội trộm cắp tài sản đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự với tội trộm cắp tài sản nếu tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của Nguyễn Văn A có dấu hiệu của tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015. Dù chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm do chủ thể chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự đối với tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng đủ cơ sở để kết luận hành vi đó là phạm tội.

Thứ hai, cần phải xử lý B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS

Khoản 1 Điều 323 BLHS tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” BLHS quy định:“Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03  năm”.

Theo đó, một người phạm tội theo quy định tại Điều 323 BLHS khi người đó có hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, nghĩa là nếu giá trị của vật phạm pháp đủ để cấu thành cơ bản trong các điều luật tương ứng thì người thực hiện hành vi tiêu thụ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Trong trường hợp này, tài sản mà Nguyễn Văn A chiếm đoạt đã đủ định lượng cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” nên B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” mà không phụ thuộc vào việc xử lý hình sự đối với hành vi của Nguyễn Văn A.

Do vậy, phải xử lý B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS, hành vi khách quan và giá trị tài sản A chiếm đoạt đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng do A chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên chỉ xử lý hành chính đối với Nguyễn Văn A, còn nếu không xử lý hình sự đối với B là bỏ lọt tội phạm.

Trên đây là quan điểm của tác giả trao đổi về vụ án rất mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc.

                            

NGUYỄN THÀNH LUÂN (Tòa án quân sự Quân khu 3)

Tòa án  tp Long Xuyên xét xử vụ án trộm cắp tài sản - Ảnh: TAND LX