Cơ sở lý luận, thực tiễn của sự ra đời và nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao

Nhân dịp 5 năm ngày thành lập các Tòa án nhân dân cấp cao, Tạp chí Tòa án giới thiệu bài viết "Cơ sở lý luận, thực tiễn của sự ra đời và nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao".

1. Yêu cầu khách quan của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

1.1 Khái quát quá trình phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân trước khi ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng, Nhà nước ta đã nhận định, đánh giá được vai trò quan trọng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực của chính quyền vô sản, thực hiện quyền xét xử nên Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 về việc thiết lập các Tòa án quân sự, theo đó 09 Tòa quân sự đầu tiên được thành lập ở ba miền của đất nước có thẩm quyền “xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trừ trường hợp phạm nhân là binh sỹ thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật” (Điều 2 Sắc lệnh 33C/SL ngày 13/9/1945).

Tại kỳ họp lần thứ tám, tháng 4 năm 1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao và Viện công tố nhân dân trung ương, tách hệ thống Tòa án nhân dân và Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp. Ngày 31/11/1959, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp mới của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. đánh dấu sự thay đổi lớn trong tổ chức bộ máy Nhà nước, đặc biệt là tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp, theo đó Tòa án nhân dân không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm và báo cáo trước cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước – Quốc hội.

Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp năm 1959, ngày 14/7/1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân, là cơ sở pháp lý quan trọng củng cố sự phát triển, cải cách hệ thống Tòa án nhân dân. Ngày 23/3/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân các cấp. Theo Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 thì “các Tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, Tòa án nhân dân ở các khu vực tự trị”; “ở các khu vực tự trị, tổ chức các Tòa án nhân dân địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp và những nguyên tắc tổ chức Tòa án nhân dân trong Luật này”. Tại thời điểm này hệ thống Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án địa phương, các Tòa án quân sự.

Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống nhất. Hiến pháp 1980 ra đời với những bước tiến đáng kể trong các quy định về tổ chức, bộ máy Nhà nước, trong đó nhiệm vụ, chức năng của hệ thống Tòa án nhân dân được hoàn thiện hơn trên cơ sở kế thừa các quy định của giai đoạn trước.

Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, về cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân vẫn như Hiến pháp 1980, tuy nhiên có sự thay đổi đó là việc thay đổi chế độ bầu Thẩm phán bằng việc bổ nhiệm Thẩm phán ở Tòa án nhân dân các cấp, Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức; Chánh án  Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và miễn nhiệm; Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

Năm 1994, các cơ quan trọng tài kinh tế Nhà nước chấm dứt hoạt động vào ngày 30/6/1994 và trong tháng 7/1994 số cán bộ, nhân viên (trừ cán bộ, nhân viên trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý kinh doanh), tài sản, phương tiện làm việc của các cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước được bàn giao cho Hệ thống Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân thành lập thêm một số Tòa chuyên trách như Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính.

Ngày 02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa X Luật tổ chức Tòa án nhân dân mới được ra đời thay thế cho Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1995. Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì hệ thống Tòa án nhân dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự (bao gồm Tòa án quân sự trung ương; các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; các Tòa án quân sự khu vực); các Tòa án khác do Luật định; trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.

1.2. Yêu cầu khách quan của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Vào khoảng đầu những năm 2000, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Đảng ta nhận định: “Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết 49/NQ-TW đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta nhằm cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp nước nhà. Theo đó, nền tư pháp Việt Nam là nền tư pháp xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Cải cách tư pháp phải gắn bó, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế. Đối với hệ thống Tòa án nhân dân, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo hướng: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”.

Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định tổ chức Tòa án 4 cấp , trong đó: “Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị”.

Kết luận 92/KL-TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa X về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định về tổ chức Tòa án nhân dân: Tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp như Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị.

Trên cơ sở yêu cầu khách quan của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 24/11/2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, được thông qua là bước ngoặt quan trọng trong cơ cấu, tổ chức của hệ  thống Tòa án. Trong đó,  hệ thống Tòa án nước ta sẽ được tổ chức theo 4 cấp, gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện.

2.Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ thống Tòa án

2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn:

– Xét xử phúc thẩm các vụ án do Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. (Nhiệm vụ này được tiếp nhận từ nhiệm vụ của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao theo Điều 24 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).

– Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân thuộc phạm vi thẩm quyên theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. (Nhiệm vụ giải quyết các vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm được kế thừa từ nhiệm vụ của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo Điều 23; Điều 29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).

Chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp cao được kế thừa từ chức năng xét xử phúc thẩm của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; chức năng xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm kế thừa từ chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm của các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Việc chuyển một phần nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các tỉnh cho Tòa án nhân dân cấp cao đã khắc phục những hạn chế, tồn tại trong hệ thống Tòa án từ nhiều năm, tạo thành một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương tới địa phương; đảm bảo sự giám sát hoạt động, hiệu lực pháp lý giữa các cấp Tòa án. 

Việc thành lập Tòa án nhân dân cấp cao đã làm giảm gánh nặng về khối lượng công việc cho Tòa án nhân dân tối cao, để Tòa án nhân dân tối cao tập trung, thực hiện tốt các nhiệm vụ quản lý hệ thống Tòa án, tổng kết kinh nghiệm xét xử, xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và duy trì chức năng duy nhất trong hoạt động xét xử là giải quyết các vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm để đảm bảo hiệu lực pháp lý tối cao trong các quyết định của Tòa án nhân dân tối cao.

2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao

Bộ máy của Tòa án nhân dân cấp cao gồm: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao; các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao và Bộ máy giúp việc với cơ cấu nhân sự gồm có: Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, các công chức khác và người lao động. Trong đó:

Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có số lượng không dưới 11 và không quá 13 thành viên. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao về công tác của Tòa án nhân dân cấp cao để báo cáo Tòa án nhân dân tối cao.

Các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao, gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trong trường hợp do nhu cầu công tác cần thành lập thêm các Tòa chuyên trách khác, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Các Tòa chuyên trách có nhiệm vụ, quyền hạn  : Phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

Khác với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 về các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao, Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao không có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm mà nhiệm vụ này được được thực hiện bởi Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.

Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao, gồm Văn phòng và các đơn vị khác. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao, có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các nhóm công việc sau: Tổ chức và tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao; giúp việc cho Chánh án xem xét các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân cấp dưới để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo thẩm quyền; quản lý nhân sự, ngân sách, cơ sở vật chất, công tác hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp cao.

3. Ý nghĩa lịch sử và thực tiễn của việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

Như vậy, để đáp ứng những yêu cầu, định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh mà trung tâm và trọng tâm là tòa án và hoạt động xét xử; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và xu hướng thời đại về Tòa án và xét xử, cải cách tư pháp ở Việt Nam là tất yếu và Tòa án nhân dân cấp cao ra đời là một trong các kết quả nổi bật nhất của cải cách tư pháp.

Tòa án nhân dân cấp cao được thành lập đã khắc phục được một số hạn chế về thẩm quyền xét xử của hệ thống Tòa án theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002. Cụ thể khắc phục được tình trạng các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp, thậm chí Tòa án nhân dân cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, vừa giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, dẫn đến tình trạng  chồng lấn về hoạt động, vai trò, vị trí của mỗi cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án; khắc phục được tình trạng Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm chính các bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm chính mình…; bước đầu khắc phục được việc trong hệ thống Tòa án có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái phẩm (gồm 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) khiến cho việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm bị hạn chế.

Thực tế từ khi được thành lập, các Tòa án nhân dân cấp cao đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình với các chỉ tiêu công tác năm sau cao hơn năm trước, nhất là tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm (năm 2018, năm 2019, tỷ lệ giải quyết đơn của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đều đạt trên 70%, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao ra (60%)). Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án về cơ bản được nâng lên. Các trường hợp kêu oan, bức xúc, kèo dài được tập trung giải quyết dứt điểm.

Những kết quả cụ thể trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án nhân dân cấp cao từ khi được thành lập đã góp phần quan trọng vào kết quả chung của hệ thống Tòa án nhân dân, là minh chứng rõ nét về tính đúng đắn trong việc tổ chức hệ thống Tòa án 4 cấp, trong đó có Tòa án nhân dân cấp cao.

PHẠM VĂN HÀ (Chánh án TANDCC Hà Nội) - NGUYỄN HẢI BẰNG (Phó Chánh Văn phòng TANDCC Hà Nội)