Đà Nẵng: Tòa án chuyển hồ sơ vụ đòi nợ sang Cơ quan Điều tra

TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng tiếp nhận đơn của bà Trần Thị Hải yêu cầu bà Lê Thị Nh trả nợ hơn 40 tỷ đồng. Do có đơn tố cáo của bị đơn, cơ quan xét xử đã chuyển hồ sơ đến cơ quan CSĐT TP Đà Nẵng để giải quyết theo quy định của pháp luật hình sự.

Cho vay hơn 40 tỉ đồng, nhưng không đòi được

Theo hồ sơ vụ việc, bà Trần Thị Hải (ngụ phường Bình Hiên, quận Hải Châu) trình bày là từ tháng 7/2019 tới tháng 6/2020, đã nhiều lần cho bà Lê Thị Nh (đường Võ Văn Đặng, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) vay tổng số tiền hơn 40,8 tỉ đồng, bao gồm chuyển khoản và tiền mặt  để đầu tư bất động sản. Bà Nh cam kết trả lãi hàng tháng và thanh toán tiền gốc khi nào bà Hải yêu cầu.

Cụ thể, vào ngày 15/7/2019 bà Hải cho bà Nh vay số tiền 14 tỷ đồng, thời hạn vay từ ngày 15/7 đến ngày 15/9/2019. Ngày 30/11/2019 bà Hải cho bà Nh vay thêm 7,8 tỷ đồng thời hạn vay đến ngày 16/5/2020. Ngày 5/2/2020 bà Nh tiếp tục vay bà Hải số tiền 9,5 tỷ đồng thời hạn trả đến ngày 15/9/2020. Đến ngày, 29/5/2020 bà bà Nh vay tiếp bà Hải 6 tỷ đồng, thời hạn trả đến ngày 15/9/2020. Lần vay cuối cùng là vào ngày 17/6/2020, bà Nh vay của bà Hải số tiền là 3,5 tỷ đồng thời hạn vay đến ngày 15/9/2020. Do tin tưởng và mất cảnh giác, những lần vay trả tiền, hai người chỉ xác nhận với nhau qua tin nhắn trên điện thoại mà không làm hợp đồng. Một thời gian sau, mâu thuẫn phát sinh khi bà Nh không trả số tiền vay bao gồm cả gốc và tiền lãi.

Đến tháng 8/2020, trong lần gặp mặt để đòi nợ, bà Nh đã đề nghị chuyển nhượng cho bà Hải lô đất trị giá khoảng 40 tỷ đồng nhưng đưa ra mức giá hơn 80 tỷ đồng, với phương án đó bà Hải phải chuyển thêm cho bà Nh 40 tỷ đồng. Không đồng ý, bà Hải đã yêu cầu bà Nh ký vào 5 giấy xác nhận nợ với đúng số tiền gốc hơn 40,8 tỉ đồng.

Cũng theo hồ sơ, bà Nh là bị đơn trong vụ án trình bày, người vay số tiền hơn 40,8 tỉ đồng của bà Hải là bà Đào Thị Như L. Bà Nh không phải người vay mà chỉ là người nhận hộ một phần tiền cho bà L nên từ chối trách nhiệm trả nợ. Về việc ký vào 5 tờ giấy xác nhận nợ, bà Nh cho rằng bị áp lực từ vợ chồng bà Hải và không được đọc nội dung (?).

 

Liên quan tới người tên Đào Thị Như L, bà Hải khẳng định không quen biết, cũng chưa từng nghe tới. Cũng theo bà Hải, số tiền hơn vay đều do bà Nh hỏi vay và bà Hải đều chuyển cho bà Nh, việc này thể hiện rõ trên các tin nhắn trao đổi, xác nhận vay mượn giữa hai bên. Do đó, việc bà Nh nói nhận hộ tiền chỉ là lý do trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Vụ việc sau đó được đưa ra giải quyết tại TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng. Tuy nhiên, trong thời gian Tòa án thụ lý, bị đơn Lê Thị Nh lại có đơn tố cáo nguyên đơn về hành vi cho vay nặng lãi, đề nghị Tòa án tạm dừng việc giải quyết vụ án hình sự, TAND  Q. Ngũ Hành Sơn đã chuyển hồ sơ lên cơ quan CSĐT TP. Đà Nẵng.

Cơ quan CSĐT Bộ Công an yêu cầu giải quyết

Nêu quan điểm tranh luận trong vụ án nêu trên, luật sư Nguyễn Mạnh Linh, giám đốc Công ty Luật Tân Đại Thịnh và Cộng sự cho rằng, căn cứ Điều 463 BLDS năm 2015 thì hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

Bên cạnh đó tại  Điểm a khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 quy định: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả với số tiền từ 4 triệu đồng trở lên có thể xem xét  tội lừa đảo và chiếm đoạt tài sản. Bà Nh đã nhận tiền của bà Hải giao dịch theo thoả thuận và đã xác nhận nhiều lần rồi tìm lý do đùn đẩy cho người khác, trốn tránh trách nhiệm trả nợ là có dấu hiệu làm trái với quy định pháp luật, cần được cơ quan chức năng làm rõ xem xét.

Liên quan đến vụ việc nêu trên bà Hải cũng đã làm đơn gửi đơn tố cáo bà Nh về hành vi “Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” gửi Cơ quan CSĐT Công an TP. Đà Nẵng và cung cấp các đoạn tin nhắn xác nhận giao dịch giữa 2 người đề nghị cơ quan Công an giám định.

Ngày 26/10/2021, Cơ quan CSĐT Công an TP. Đà Nẵng đã có Thông báo kết luận giám định nêu rõ “Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các tin nhắn Facebook có mốc thời gian từ 28/4/2020 tới 1/7/2020 được lưu trữ trong mẩu vật gửi giám định”. Điều này phản ánh giao dịch chuyển tiền giữa hai người được khẳng định.

Tuy nhiên, Công an cũng cho rằng, hành vi vi phạm nghĩa vụ trả tiền của bà Nh không cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nên không khởi tố vụ án.

Bà Hải cho rằng, bà Nh vay của mình với số tiền rất lớn rồi tìm cách gán tài sản với giá trị lớn gấp nhiều lần giá trị thật nhằm chiếm đoạt đoạt số tiền vay, khi thủ đoạn đó không thực hiện được bà Nh chối nợ và đổ thừa cho việc nhận hộ một người mà bà Hải không biết là ai, để chiếm đoạt đến cùng tiền của bà Hải là hành vi phạm tội rõ ràng.  Do đó, bà Hải đã gửi đơn khiếu nại tới Cơ quan CSĐT Bộ Công an, VKSNDTC đối với quyết định này.

Sau khi tiếp nhận đơn, Cơ quan CSĐT Bộ Công an tại Phiếu chuyển đơn số 990/PC-01(P5) ngày 17/5/2023 về việc bà Trần Thị Hải khiếu nại, tố giác bà Lê Thị Nh có hành vi “Lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được giải quyết, chỉ đạo Cơ quan CSĐT TP. Đà Nẵng xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật. 

Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin diễn biến vụ việc này.

BÙI QUỐC HẢI