Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính – Vướng mắc và kiến nghị

Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin đề cập đến quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, với những khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án cấp sơ thẩm.

1.Một tình huống cụ thể nhiều cách hiểu khác nhau

Ông Nguyễn Văn A khởi kiện ra TAND tỉnh X yêu cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính liên quan đến việc thu hồi đất của ông. Kèm theo đơn khởi kiện, ông Nguyễn Văn A còn cung cấp một số tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, TAND tỉnh X đã tiến hành các thủ tục để ông Nguyễn Văn A đóng tiền tạm ứng án phí và sau đó Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã 02 lần ban hành giấy triệu tập và đã tống đạt hợp lệ với nội dung mời ông Nguyễn Văn A đến trụ sở Tòa án để làm việc và cung cấp một số thông tin liên quan đến việc khởi kiện của ông, tuy nhiên, ông Nguyễn Văn A hai lần vắng mặt không có lý do.

TAND tỉnh X đã căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật TTHC năm 2015 đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A.

Không đồng ý với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn A kháng cáo đến Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu hủy quyết đình đình chỉ của Tòa án nhân dân tỉnh X, với lý do Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án là ảnh hưởng đến quyền lợi của ông.

Hiện có hai quan điểm giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm.

Quan điểm thứ nhất: Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn A, giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của TAND tỉnh X với lý do “Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Trong trường hợp này, ông Nguyễn Văn A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt.

Quan điểm thứ hai: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn A, hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của TAND tỉnh X, chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh X tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định chung của pháp luật. Lý do mà Tòa án cấp phúc thẩm hủy quyết định đình chỉ là: Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đầy đủ các quá trình tố tụng tiếp theo, Tòa án cấp sơ thẩm chưa đưa vụ án ra xét xử, chưa triệu tập ông Nguyễn Văn A hợp lệ hai lần để tham dự phiên tòa.

2.Căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án

Tác giả cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật TTHC, lý do như sau:

Điều 9 của Luật TTHC năm 2015 quy định việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong TTHC như sau:

“1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp… Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự theo quy định của Luật này.”.

Điều 83 của Luật TTHC năm 2015 quy định việc giao nộp tài liệu, chứng cứ trong TTHC như sau:

“1.Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết vụ án. Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án.”.

Điều 134 của Luật TTHC năm 2015 quy định về nguyên tắc đối thoại trong TTHC như sau: “1.Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật này.”.

Điều 135 của Luật TTHC năm 2015 quy định về những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được, như sau:

“1. Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng; Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại.”.

Điều 136 của Luật TTHC năm 2015 quy định về việc thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại trong TTHC, như sau: 2. Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra

Điều 143 của Luật TTHC năm 2015 quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, như sau: “1. Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:đ) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;”.

Điều 157 của Luật TTHC năm 2015 quy định về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hành chính, như sau:

“2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì xử lý như sau: a) Đối với người khởi kiện, người đại diện theo pháp luật của người khởi kiện mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;”.

Các điều luật viện dẫn nói trên và các điều luật chung khác của Luật TTHC năm 2015 đã quy định nguyên tắc căn bản về những giai đoạn giải quyết vụ án hành chính, như sau:

– Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự theo quy định của Luật TTHC;

– Trường hợp đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập, để giải quyết vụ án;

– Tại Tòa án cấp sơ thẩm, việc giải quyết một vụ án hành chính cụ thể, sẽ được tiến hành qua từng giai đoạn tố tụng khác nhau và kế tiếp nhau. Trong mỗi giai đoạn tố tụng, trường hợp đương sự không đến Tòa án (mặc dù đã được triệu tập hợp lệ), nếu không vì phải nộp tạm ứng chi phí tố tụng (điểm d Khoản 1 Điều 143 của Luật TTHC năm 2015), thì Tòa án phải chuyển việc giải quyết vụ án sang giai đoạn tố tụng kế tiếp; chỉ khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án nói trên, Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập ông Nguyễn Văn A đến trụ sở Tòa án để làm việc và cung cấp một số thông tin liên quan đến việc khởi kiện của ông. Vào thời điểm này, vụ án đang ở giai đoạn tố tụng “Lập hồ sơ hồ sơ vụ án hành chính”; “Giao nộp, thu thập, xác minh, kiểm tra chứng cứ” (Quy định tại các Điều 132 – 136 Luật TTHC năm 2015), chưa thực hiện thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại (Điều 135 – 137 của Luật TTHC năm 2015).

Như vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm cần thiết phải chuyển sang giai đoạn tố tụng kế tiếp (tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại). Sau đó, nếu không tiến hành đối thoại được hoặc qua việc đối thoại, các bên không thỏa thuận được với nhau về cách giải quyết vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm chuyển sang giai đoạn tố tụng kế tiếp (đưa vụ án ra xét xử) theo thủ tục chung. Tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai (triệu tập hợp lệ cả hai lần), đương sự phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và khi đó, Tòa án cấp sơ thẩm mới có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người người khởi kiện (điểm a khoản 2 Điều 157 của Luật TTHC năm 2015).

3.Bất cập và kiến nghị

Theo điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật TTHC năm 2015 quy định Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp sau đây: “Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.”

Nội dung: “Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt” có thể dẫn đến việc các Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có hai hướng áp dụng khác nhau để giải quyết vụ án:

Thứ nhất, Thẩm phán được phân công giải quyết “hiểu” triệu tập hợp lệ lần thứ hai là áp dụng trong tất cả các giai đoạn TTHC và sẽ đình chỉ giải quyết vụ án ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào nếu đương sự vắng mặt không có lý do mà đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai.

Thứ hai, Thẩm phán được phân công giải quyết “hiểu” triệu tập hợp lệ lần thứ hai chỉ áp dụng trong giai đoạn mở phiên tòa xét xử vụ án (đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm) và đình chỉ giải quyết vụ án nếu đương sự vắng mặt không có lý do mà đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.

Việc “hiểu” và áp dụng khác nhau dẫn đến hệ quả pháp lý khác nhau. Từ đó dẫn đến, có những vụ án có tính chất tương tự nhau, đương sự đã được triệu tập để thực hiện các giai đoạn tố tụng như nhau, nhưng có thể cùng một Tòa án các Thẩm phán lại có nhiều cách giải quyết vụ án khác nhau, hoặc là đình chỉ (do đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai ở giai đoạn tố tụng chuẩn bị xét xử) hoặc là tiếp tục giải quyết theo các giai đoạn tố tụng tiếp theo đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Điều này dẫn đến việc xét xử không được thống nhất trong hệ thống TAND, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được đảm bảo, ảnh hưởng đến sự tin tưởng của nhân dân đối với cơ quan xét xử.

Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất bổ sung nội dung của điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật TTHC năm 2015 quy định về việc Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp sau đây: “đ) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham dự phiên tòa mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;”

Có như thế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hành chính của các Tòa án, các Thẩm phán về đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mới phù hợp và thống nhất, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Một phiên tòa hành chính tại TAND tỉnh Vĩnh Long – Ảnh: Long Châu

 

 

 

 

 

Ths THÂN VĂN NHƯỜNG (Tòa án nhân dân cấp cao tại Tp Hồ Chí Minh)