Gia nhập, thực thi các điều ước quốc tế về phòng chống tội phạm trên biển

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trên biển và đại dương trên thế giới cũng như trong khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Biển cả, đại dương đã trở thành địa bàn trực tiếp để thực hiện hành vi phạm tội hoặc trở thành địa điểm trung chuyển, giao hàng, dấu hàng trong các phi vụ buôn bán xuyên quốc gia, là nơi trú ẩn, lẩn tránh sự truy quét của lực lượng đấu tranh chống tội phạm của các quốc gia.

Thế kỷ XXI được coi là thế kỷ hướng ra biển. Các quốc gia hướng tới việc phân định chủ quyền quốc gia trên biển, giải quyết các tranh chấp liên quan và đẩy mạnh hợp tác về an ninh biển. Để đấu tranh với các loại tội phạm quốc tế có hiệu quả thật sự, đòi hỏi mọi chủ thể của luật quốc tế phải thượng tôn pháp luật, tự nguyện tuân thủ các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế, tham gia ký kết các điều ước mới, và quan trọng hơn là cần có sự hợp tác quốc tế để tuyên chiến với loại tội phạm này nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trên biển và đại dương trên thế giới cũng như trong khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập thương mại quốc tế làm cho nền kinh tế thế giới không ngừng phát triển nhưng cũng làm phát sinh nhiều hình thức tội phạm xuyên quốc gia đặc biệt là buôn bán ma túy và các loại tội phạm mang lại lợi nhuận cao như hoạt động buôn bán vũ khí, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn bán động vật quý hiếm, đưa người ra nước ngoài cư trú lao động bất hợp pháp, buôn lậu các tác phẩm nghệ thuật cổ đại, tiền tệ… Biển cả, đại dương đã trở thành địa bàn trực tiếp để thực hiện hành vi phạm tội hoặc trở thành địa điểm trung chuyển, giao hàng, dấu hàng trong các phi vụ buôn bán xuyên quốc gia, là nơi trú ẩn, lẩn tránh sự truy quét của lực lượng đấu tranh chống tội phạm của các quốc gia.

Việt Nam hiện nay là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vì vậy để bảo đảm thực thi các nguyên tắc cơ bản của WTO về tự do hóa thương mại nói chung, thương mại thông qua tuyến biển và đại dương nói riêng thì cần có những biện pháp phù hợp để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro và thiệt hại do các hành vi phạm tội trên biển gây ra, thúc đẩy giao thương quốc tế đi đôi với bảo đảm an ninh hàng hải.

Gia nhập, thực thi Công ước và xây dựng pháp luật về biển

Trước hết, Việt Nam là quốc gia tích cực trong việc gia nhập và thực thi các quy định của Công ước Luật biển năm 1982.

Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển. Từ trước khi Công ước Luật Biển năm 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy định liên quan của luật pháp quốc tế để xây dựng các văn bản pháp quy về biển. Căn cứ vào xu thế phát triển tiến bộ của luật biển quốc tế. Năm 1977 Việt Nam ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam” xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, cho phép mở rộng quyền của Việt Nam ra biển, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Với Tuyên bố này, Việt Nam là một trong những nước đi tiên phong trong việc đưa khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trở thành khái niệm có giá trị tập quán và sau này trở thành một nội dung quan trọng của Công ước Luật Biển năm 1982.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng Công ước Luật Biển năm 1982 và là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước, ban hành Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này ngày 23/6/1994.

Vận dụng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Công ước Luật Biển năm 1982 giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về Phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về Phân định Thềm lục địa ngày 26/6/2003.

Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp tác cùng phát triển ở những khu vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982. Năm 1992, Việt Nam đã ký với Ma-lai-xia Thỏa thuận về việc hợp tác khai thác tài nguyên khoáng sản khu vực thềm lục địa chồng lấn và thỏa thuận này đang được triển khai có hiệu quả. Bên cạnh đó, Việt Nam còn là thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương, tham gia đầy đủ các Hội nghị của các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển năm 1982 được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và luôn có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy thực thi hiệu quả Công ước; tham gia và có những đóng góp tích cực vào các hội nghị Cơ quan quyền lực đáy đại dương trong đó đề cao vai trò của Công ước Luật Biển năm 1982; ủng hộ tăng cường hoạt động của Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa và ủng hộ vai trò tư pháp của Tòa án Luật biển quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam là quốc gia tích cực trong việc thực thi các điều ước quốc tế có liên quan đến đấu tranh chống tội phạm trên biển và đại dương.

Việt Nam cũng đã tham gia xây dựng nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ chức Vệ tinh Hàng hải (INMARSAT), Hệ thống An toàn và Cứu nạn Hàng hải Toàn cầu (GMDSS); Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu, 1973 và Nghị định thư bổ sung 1978 (MARPOL 73/78), Công ước về tấn trọng tải (Tonnage 69), Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến đâm va giữa các tàu chung (COLREG 72), Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển (SOLAS 74), Công ước quốc tế về Mạn khô (Load Line 66), Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp chứng chỉ chuyên môn và trực ca cho thuyền viên (STCW 78/95), Công ước quốc tế về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải (SUA 88) và Nghị định thư về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải đối với các dàn khoan cố định ở thềm lục địa; Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu (CLC 1992-Việt Nam tham gia ngày 1 tháng 7 năm 2003 và Công ước có hiệu lực với Việt Nam từ 1 tháng 7 năm 2004); Công ước về Tạo thuận lợi trong giao thông đường biển (FAL); Công ước về Tìm kiếm, cứu nạn (SAR 79).

Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định chung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN liên quan đến vận tải biển và dịch vụ hàng hải như: Hiệp định về tạo thuận lợi cho tàu biển bị nạn và cứu người trên tàu bị nạn ngày 15 tháng 5 năm 1975, Hiệp định khung ASEAN về Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hóa quá cảnh ngày 16/12/1998, Hiệp định khung về thương mại dịch vụ (GATS) tháng 12/1995, Hiệp định khung ASEAN về Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải liên quốc gia ngày 26/3/2012.

 Thứ ba, Việt Nam đã xây dựng Luật biển và các văn bản quy phạm pháp luật quốc nội có sự tương thích với các điều ước quốc tế.

Ngày 21/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật Biển Việt Nam, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013. Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, có tham khảo các thông lệ quốc tế và thực tiễn của các nước. Với việc thông qua Luật biển, Việt Nam đã làm cho các quy định của luật pháp về biển của mình hài hòa với các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, điều đó khẳng định Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, thể hiện quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.

Việt Nam cũng đã ban hành và tổ chức thực hiện tốt các văn bản quy phạm dưới luật nhằm cụ thể hóa công tác đấu tranh chống tội phạm trên biển, như: Quyết định 133/QĐ-TTg ngày 09/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp với các lực lượng đấu tranh chống các loại tội phạm trên biển; Quyết định số 28/2002/QĐ-BQP ngày 25/02/2002 (nay là Thông tư số 02/2011/TT-BQP) của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa lực lượng Cảnh sát biển với các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng trên các vùng biển và thềm lục địa của Tổ quốc.

Nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh chống tội phạm trên biển

 Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh chống tội phạm trên biển, bên cạnh việc gia nhập và đẩy mạnh công tác thực thi các điều ước quốc tế, tác giả đưa ra một số kiến nghị đề xuất cụ thể như sau:

Một là, cần đẩy mạnh thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành trong nước. Tăng cường hợp tác với các cơ quan cảnh sát, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an của các nước mà ở đó tình hình tội phạm liên quan đến Việt Nam có những diễn biến phức tạp. Chủ động và tích cực tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương đặc biệt là các tổ chức, hiệp hội thực thi pháp luật mang tính quốc tế như Interpol, Aseanpol, các cơ quan về chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc. Mở các lớp tập huấn luyện, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trên biển.

 Hai là, cần tiếp tục kiên định các nguyên tắc của các điều ước quốc tế này trong việc hợp tác đấu tranh chống các hành vi phạm tội trên biển. Gắn việc hòa bình bảo vệ chủ quyền quốc gia với đấu tranh bảo vệ an ninh biển quốc tế, kết hợp hài hòa giữa các hình thức hợp tác và đấu tranh chống tội phạm trong khu vực và trên quy mô toàn cầu. Tích cực thúc đẩy các hoạt động chống tội phạm trong quá trình thực hiện quy tắc ứng xử DOC hướng tới COC trên Biển Đông.

 Ba là, cần sớm ban hành các quy định hướng dẫn thi hành cụ thể và thống nhất, gắn việc áp dụng Luật với công tác phổ biến tuyên truyền sâu rộng Luật biển đến mọi tầng lớp nhân dân để đưa Luật vào thực tiễn cuộc sống. Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các văn bản pháp luật về môi trường, về biển để ban hành điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ phát sinh đặc biệt là các quy định về việc xử lý các hành vi phạm tội trên biển.

 Bốn là, không ngừng nâng cao năng lực của các lực lượng bảo vệ biển đặc biệt chú trọng đến ba lực lượng nòng cốt là Hải quân, Cảnh sát biển và bộ đội biên phòng. Trong công tác phối hợp với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền tích cực phối hợp chặt chẽ với nhau đảm bảo nguyên tắc trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng và lấy việc hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh lên trên hết.

 Năm là, cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền vận động quần chúng, nhất là đối với nhân dân, phương tiện hoạt động ở vùng biển xa bờ tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo của Tổ quốc.

Trong quá trình đấu tranh chống tội phạm trên biển bằng các nghiệp vụ tuần tra, kiểm soát cần đảm bảo chủ quyền an ninh lãnh thổ, bảo vệ tính mạng tài sản, của cải của các tàu thuyền, ngư dân trên biển. Kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh thực địa trên tinh thần giữ vững nguyên tắc, nhưng linh hoạt, mềm mỏng trong sách lược, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố của các bên về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC); hợp tác giải quyết bằng phương pháp hòa bình, tránh manh động, mắc mưu các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ gây ra xung đột, chiến tranh trên biển.

 

 

NGUYỄN THỊ XUÂN ( Khoa Luật- Học viện Cảnh sát nhân dân)