.jpg)
Hội đồng Thẩm phán tối cao Cộng hòa Pháp
Hội đồng Thẩm phán tối cao của Cộng hòa Pháp là một thiết chế đặc biệt về cơ cấu tổ chức cũng như về chức năng, quyền hạn và vị trí của nó trong tổ chức bộ máy của Nhà nước: trợ giúp Tổng thống thực hiện vai trò bảo đảm sự độc lập của cơ quan tư pháp và thẩm quyền trong việc bổ nhiệm Thẩm phán và Công tố viên, cũng như xử lý kỷ luật Thẩm phán, Công tố viên.
1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Thẩm phán tối cao
Hội đồng Thẩm phán tối cao được thành lập theo Luật ngày 30/8/1883 về tổ chức Tòa án Pháp. Nhưng đến năm 1946 mới chính thức được công nhận theo quy định của Hiến pháp ngày 27/10/1946, Hội đồng do Tổng thống làm Chủ tịch, Bộ trưởng bộ Tư pháp làm Phó chủ tịch. Qua nhiều lần cải tổ, đến năm 2010, theo quy định tại Điều 65 của Hiến pháp, Luật về hiện đại hóa tổ chức các cơ quan nhà nước và văn bản dưới luật về Hiến pháp, cơ cấu tổ chức của Hội đồng đã một lần nữa thay đổi, theo đó, Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Tư pháp thôi đảm nhận Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng mà thành lập ba bộ phận riêng biệt trong Hội đồng:
Bộ phận thứ nhất chuyên trách về Thẩm phán do Chánh án Tòa Phá án làm Chủ tịch, gồm 6 thành viên: 5 Thẩm phán và 1 Công tố viên. Có thẩm quyền trong việc kỷ luật và bổ nhiệm Thẩm phán.
Bộ phận thứ hai chuyên trách về Công tố viên do Công tố viên trưởng tại Tòa Phá án làm Chủ tịch, gồm 6 thành viên: 5 Công tố viên và 1 Thẩm phán. Có thẩm quyền trong việc kỷ luật và bổ nhiệm Công tố viên.
Thành viên của hai ban này do Thẩm phán và Công tố viên đồng nghiệp bầu ra.
Ngoài các thành viên nói trên, hai bộ phận còn có 8 thành viên chung, gồm: một thành viên của Tham chính viện do Đại hội đồng của Tham chính viện bầu ra, một luật sư do Chủ tịch Hội đồng luật sư quốc gia bổ nhiệm trên cơ sở ý kiến thông qua của Đại hội đồng của Hội đồng luật sư quốc gia, 6 thành viên là những cá nhân có phẩm chất nổi bật được Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm theo cặp một nam - một nữ.
Bộ phận thứ ba là bộ phận toàn thể do Chánh án Tòa Phá án làm Chủ tịch, có thẩm quyền giải quyết bất kỳ yêu cầu nào của Tổng thống với tư cách là người bảo vệ nguyên tắc độc lập tư pháp hoặc đề xuất của Bộ trưởng bộ Tư pháp về bất kỳ vấn đề nào quy định tại Điều 65 của Hiến pháp.
Các thành viên của Hội đồng Thẩm phán tối cao có nhiệm kỳ 04 năm và không được tái nhiệm.
2. Thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán tối cao
Thẩm quyền trong việc bổ nhiệm Thẩm phán: Hội đồng Thẩm phán tối cao có thẩm quyền đề nghị Tổng thống bổ nhiệm các Thẩm phán của Tòa Phá án, Chánh án các Tòa phúc thẩm, Chánh án các Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng. Đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán các cấp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị nhưng phải có ý kiến đồng thuận của Hội đồng Thẩm phán tối cao, ý kiến của Hội đồng có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với Bộ trưởng, nghĩa là nếu Hội đồng không đồng ý với đề nghị bổ nhiệm một ứng viên nào, Bộ trưởng không thể đề nghị bổ nhiệm họ.
Thẩm quyền trong việc bổ nhiệm Công tố viên: Bộ trưởng bộ Tư pháp là người có thẩm quyền đề nghị Tổng thống bổ nhiệm, Hội đồng Thẩm phán tối cao không có quyền giới thiệu ứng viên. Bộ phận chuyên trách về Công tố viên của Hội đồng chỉ đưa ra ý kiến đơn thuần “ủng hộ” hoặc “phản đối” đối với những ứng viên được đề nghị bổ nhiệm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp không bị ràng buộc bởi những ý kiến này. Trừ trường hợp việc bổ nhiệm các Công tố viên trưởng tại các Tòa phúc thẩm phải được Hội đồng Thẩm phán tối cao thông qua.
Thẩm quyền trong việc kỷ luật Thẩm phán và Công tố viên:
Thông thường, Thẩm phán và Công tố viên sẽ bị xử lý kỷ luật nếu có những hành vi sau: Không làm việc để hồ sơ ứ đọng; không nộp thuế; cung cấp thông tin cho bị can, bị cáo hoặc cơ quan báo chí, vi phạm bí mật điều tra, bí mật nghị án; Công tố viên không chịu thi hành mệnh lệnh của Trưởng công tố; xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác, thí dụ có hành vi xử sự không đúng mực với một phụ nữ trong văn phòng; giả mạo văn bản, thường là ghi ngày trong văn bản sớm hơn thực tế; có những lời lẽ phân biệt chủng tộc tại phiên tòa hoặc trong bản án. Việc Thẩm phán ra bản án nhưng bị Tòa án cấp trên hủy không bị coi là phạm lỗi bị kỷ luật mà chỉ là tiêu chí để đánh giá năng lực của Thẩm phán trong việc nâng cấp (ở Pháp có hai cấp Thẩm phán: học viên sau khi tốt nghiệp Trường Thẩm phán được bổ nhiệm làm Thẩm phán cấp 2, thông thường phải làm Thẩm phán cấp 2 từ 12 đến 15 năm mới được đề bạt lên cấp 1, quá trình nâng cấp này diễn ra cho đến khi Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu là 65 hoặc 68 đối với một số chức vụ tại Tòa Phá án).
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các Chánh án các Tòa phúc thẩm, Công tố viên trưởng tại các Tòa phúc thẩm là những người có thẩm quyền nộp hồ sơ đến Hội đồng Thẩm phán tối cao yêu cầu kỷ luật Thẩm phán, Công tố viên. Khi xem xét kỷ luật Thẩm phán, bộ phận chuyên trách về Thẩm phán sẽ trực tiếp đưa ra hình thức kỷ luật, quyết định này có thể bị kháng cáo lên Tham chính viện về vấn đề luật pháp. Đối với việc kỷ luật Công tố viên, bộ phận chuyên trách về Công tố viên chỉ đưa ra ý kiến về hình thức kỷ luật cần áp dụng và dựa trên ý kiến này Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ ra quyết định, quyết định này cũng có thể bị kháng cáo lên Tham chính viện xem xét lại.
Ngoài những người nêu ở trên, theo luật về cải cách Hiến pháp ngày 23/7/2008, đương sự trong vụ án cũng có quyền trực tiếp nộp đơn khiếu nại lên Hội đồng Thẩm phán tối cao khi cho rằng Thẩm phán, Công tố viên đã vi phạm kỷ luật trong thực hiện nhiệm vụ hoặc trong quá trình giải quyết vụ án của họ. Tuy nhiên, họ không được khiếu nại đối với Thẩm phán, Công tố viên đang giải quyết vụ án hoặc chịu trách nhiệm về vụ việc đang được giải quyết mà chỉ được nộp khiếu nại sau thời hạn một năm kể từ khi có quyết định có hiệu lực pháp luật về chấm dứt thủ tục tố tụng đối với vụ việc. Hai ủy ban: Ủy ban chuyên trách về Thẩm phán và Ủy ban chuyên trách về Công tố được thành lập để tiếp nhận đơn khiếu nại từ đương sự. Mỗi ủy ban gồm hai Thẩm phán hoặc Công tố viên và hai người không phải là Thẩm phán hoặc Công tố viên được Chủ tịch bộ phận chỉ định hằng năm. Ủy ban có thể từ chối những đơn khiếu nại thiếu cơ sở. Nếu đơn được chấp nhận, ủy ban sẽ yêu cầu Chánh án hoặc Công tố viên trưởng của Văn phòng Công tố nơi Thẩm phán, Công tố viên đang công tác gửi báo cáo đánh giá hoặc cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc; ủy ban cũng có thể gặp gỡ người bị khiếu nại hoặc người nộp đơn khiếu nại để xác nhận thông tin.
Trong mọi trường hợp, Hội đồng Thẩm phán tối cao đều đưa ra quyết định kỷ luật Thẩm phán hoặc ý kiến về kỷ luật Công tố viên tại phiên “xét xử” công khai: sau khi nghe báo cáo viên, người đã tiến hành điều tra vụ việc và Thẩm phán (hoặc Công tố viên) trình bày, Hội đồng sẽ ra quyết định kỷ luật đối với Thẩm phán hoặc đưa ra ý kiến về biện pháp kỷ luật đối với Công tố viên để Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Các biện pháp kỷ luật mà Hội đồng Thẩm phán tối cao và Bộ trưởng có thể quyết định là: khiển trách (ghi vào hồ sơ); chuyển công tác sang Tòa án khác; cấm đảm nhận một số nhiệm vụ trong tương lai; hạ bậc lương; hạ bậc chức vụ; buộc thôi việc (được hưởng trợ cấp hoặc không được hưởng trợ cấp; nặng nhất là bãi nhiệm (mặc dù Tổng thống là người bổ nhiệm nhưng không cần ra quyết định bãi nhiệm).
Thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán tối cao trong việc giải quyết yêu cầu của Tổng thống hoặc đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp:
Theo quy định tại Điều 64 của Hiến pháp, Tổng thống là người đảm bảo cho sự độc lập của cơ quan tư pháp và Hội đồng Thẩm phán tối cao có vai trò hỗ trợ Tổng thống thực hiện nhiệm vụ này. Để thực hiện vai trò hỗ trợ và theo yêu cầu của Tổng thống, Hội đồng sẽ thành lập phiên họp toàn thể do Chánh án Tòa Phá án hoặc Công tố viên trưởng tại Tòa Phá án chủ trì với sự tham gia của 6 Thẩm phán và 8 thành viên không phải là Thẩm phán.
Bộ phận toàn thể của Hội đồng Thẩm phán tối cao giải quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và những vấn đề liên quan đến chức năng của hệ thống tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề xuất.
Mô hình Hội đồng Thẩm phán tối cao đã được một số nước học tập và tổ chức giống như của Pháp như: Ý, Hy Lạp, Bồ đào Nha, Tây ban Nha, Bỉ, Bun ga ri, Ba lan, Rumani, Nam Tư, Macedonia, Slovenia.
Bài viết được tổng hợp từ các tài liệu: “Hội thảo pháp luật về tổ chức Tòa án, quản lý Tòa án, quản lý Thẩm phán và cán bộ Tòa án “của Nhà pháp luật Việt -Pháp, Hà nội 5-6 và 7 tháng 2/2001”, Tập tài liệu tại “Hội thảo đào tạo Thẩm phán Việt Nam của Trường Thẩm phán quốc gia Pháp dành cho đoàn Thẩm phán Việt Nam, tháng 2-2012”.
Tòa Phá án Pháp - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Vụ “thổi giá” đất 30 tỷ đồng/m2 ở Sóc Sơn: 6 bị cáo đã lĩnh án tù
-
Ngày Xuân, Cột cờ Lũng Cú cảnh đẹp mê hoặc lòng người
-
Dự kiến sẽ sáp nhập 6 - 7 nghìn đơn vị hành chính cấp xã
-
Về bài viết: “Có đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do sự việc đã được giải quyết bằng bản án hành chính đã có hiệu lực không?”
-
Pháp luật Trung Quốc về kiện phái sinh và kiến nghị cho Việt Nam
Bình luận