Hội thảo quốc tế về Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Ngày 12/4/2019 tại Hà Nội, TANDTC đã tổ chức Hội thảo quốc tế về Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình – Chánh án TANDTC và TS Nguyễn Thúy Hiền – Phó Chánh án TANDTC chủ trì Hội thảo.

14 tham luận

PGS.TS Nguyễn Hòa Bình – Chánh án TANDTC phát biểu khai mạc Hội thảo nêu sự cần thiết của hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án và tính cần thiết phải có Luật điều chỉnh hoạt động này. Chánh án đánh giá cao và cảm ơn các nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước, các Thẩm phán, công chức Tòa án tham dự Hội thảo này.

Theo chương trình, PGS.TS Nguyễn Tất Viễn – nguyên Ủy viên Thường trực BCĐ Cải cách tư pháp trung ương; ông Gordon J.Low – Thẩm phán TACC Hoa Kỳ; Thẩm phán Nagahashi Masanori – chuyên gia dài hạn JICA; Thẩm phán Park Hyun Soo – giám đốc Dự án “Tăng cường tính minh bạch và nâng cao chất lượng xét xử tại Tòa án Việt Nam; Ths Nguyễn Thị Mai – Chánh án TAND Tp Hải Phòng; Ths Ung Thị Xuân Hương – Chánh án TAND Tp HCM; PGS.TS Trần Anh Tuấn – Phó trưởng Khoa pháp luật Dân sự Đại học Luật Hà Nội; TS Phạm Quý Tỵ – nguyên Phó Chủ nhiệm UB Tư pháp QH, nguyên Thứ trưởng Bọ Tư pháp; Thẩm phán Pornpat Tantinkulanant – TATC Thái Lan; ông Den Yu – Phó Vụ trưởng Văn phòng định hướng và hướng dẫn Cải cách tư pháp, TANDTC Trung Quốc; PGS.TS Phạm Duy Nghĩa –Giảng viên Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright và Khoa Luật ĐH Kinh tế TP HCM; TS Nguyễn Văn Chiến – Phó Chủ nhiệm Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Ts Nguyễn Hưng Quang – Hòa giải viên CEDR, Giám đốc điều hành Văn phòng Luật sư NHQuang & cộng sự có tham luận trình bày tại Hội thảo, và các đại biểu thảo luận xung quanh các vấn đề tham luận đặt ra.

Mở đầu Hội thảo, Ths Chu Thành Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC giới thiệu về Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, cho biết: Hòa giải, đối thoại đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là nhu cầu và đòi hỏi của xã hội để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống. Với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc chia sẻ, cảm thông, cao thượng, “hai bên cùng thắng”, hòa giải, đối thoại góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai, tạo sự đồng thuận và xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân.

Hòa giải thành, đối thoại thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của các luật tố tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.

 

Ông Gordon J.Low – Thẩm phán TACC Hoa Kỳ trình bày tham luận

Với Tòa án, đổi mới, tăng cường và nâng cao hiệu quả hòa giải, đối thoại là giải pháp căn cơ, giúp giải quyết khối lượng công việc ngày càng nặng nề của Tòa án trong bối cảnh hàng năm các tranh chấp, khiếu kiện không ngừng tăng lên cả về số lượng và tính chất phức tạp.Luật này quy định những nguyên tắc cơ bản, phạm vi, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; tổ chức, hoạt động của Trung tâm Hòa giải, Đối thoại; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên; trình tự, thủ tục, xử lý kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Phạm vi hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự), khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các bên đồng ý hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc.

Luật này không điều chỉnh các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định.

Luật này quy định cơ chế pháp lý độc lập về hòa giải, đối thoại để giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm giá trị và hiệu quả thi hành kết quả hòa giải, đối thoại; góp phần hàn gắn những bất đồng, rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp, khiếu kiện trong tương lai, tạo sự đồng thuận và xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân.

Hiện nay dự thảo còn có một số nội dung có ý kiến khác nhau như phạm vi điều chỉnh của Luật; vấn đề kinh phí bảo đảm thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Hình thức tổ chức, hoạt động của Trung tâm Hòa giải đối thoại; Về giám đốc, phó giám đốc Trung tâm Hòa giải đối thoại; Điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên, đối thoại viên; Sự tham gia của Thẩm phán tại phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải đối thoại… cũng có các ý kiến khác nhau. Do đó, Hội thảo đã thảo luận các nội dung này và những vấn đề khác đặt ra trong dự thảo.

Mất nhiều thời gian để thay đổi thủ tục, các thói quen và tập quán

Với tham luận “Một số vấn đề đặt ra trong Dự án Luật Hòa giải đối thoại  tại Tòa án, PGS.TS Nguyễn Tất Viễn – nguyên Ủy viên Thường trực BCĐ Cải cách tư pháp trung ương đồng tình cao với việc ban hành đạo luật này.

Về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau, PGS.TS Nguyễn Tất Viễn cho rằng về phạm vi điều chỉnh của Luật không chỉ áp dụng đối với những trường hợp đã có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính… mà cần áp dụng với cả những tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính mà các bên không lựa chọn khởi kiện mà lựa chọn cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Về kinh phí, ông cho rằng nên để Nhà nước chi trả. Về hình thức hoạt động, nên xác định Trung tâm Hòa giải, Đối thoại tại Tòa án chỉ là tổ chức hoạt động hòa giải, đối thoại; không phải là việc thành lập thêm bộ máy tổ chức thuộc Tòa án. Trung tâm có sự giám sát, hỗ trợ của Tòa án và đặt dưới sự quản lý của Tòa án là phù hợp…

Ông Gordon J.Low – nguyên Thẩm phán TACC Hoa Kỳ đã trình bày tham luận “Giới thiệu kinh nghiệm của Hoa Kỳ về hòa giải và bình luận Dự án Luật Hòa giải đối thoại  tại Tòa án của Việt Nam”. Trong bài phát biểu của mình, sau khi đánh giá “Dự thảo rất đầy đủ và xuyên suốt”, ông nêu một số ý kiến cụ thế. Ông nói: Nên quy định rằng, trước phiên hòa giải phải có thỏa thuận được chuẩn hóa, được các bên ký kết là sẽ hòa giải thiện chí, và thỏa thuận này cũng trích dẫn thêm các quy định trong luật.

Về tuổi của hòa giải viên, ông cho rằng có thể lên đến 76 tuổi, vì  các Thẩm phán nghỉ hưu, cán bộ nhà nước giàu kinh nghiệm… là những tài sản quý báu, nếu để giới hạn ở tuổi 70 thì hơi trẻ.

Thù lao cũng cần tương xứng với kỹ năng và cống hiến của họ, và phải đủ lớn để thu hút và duy trì những người có năng lực nhất. Ông cũng đề nghị nên có quy định về bảo mật.

Ông chia sẻ: Mặc dù chưa có luật, nhưng dự án thí điểm tại một số địa phương thời gian qua “đã hoạt động rất tuyệt vời, tôi tin rằng hòa giải tại Việt Nam chắc chắn sẽ được hoàn thiện, hoạt động hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi ích hơn khi có Luật này, qua việc chuẩn hóa thủ tục tại tất cả các Tòa án trên toàn quốc”. Và ông bày tỏ hy vọng cũng như cảnh báo: “Cải cách tư pháp không phải là một cơn gió thoảng. Tòa án, theo truyền thống và dự định, chuyển động chậm rãi; Tòa án là mỏ neo cho toàn xã hội, mang lại những thay đổi bền bỉ ở trung tâm, nhưng sẽ phải mất nhiều thời gian để thay đổi thủ tục, thay đổi các thói quen và tập quán đã ăn sâu”.

Thẩm phán Nagahashi Masanori – chuyên gia dài hạn JICA nhận xét: “Dự thảo này được xây dựng trên cơ sở tư vấn của nhiều chuyên gia Việt Nam cũng như chuyên gia các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và kết quả thí điểm, nên dự thảo được xây dựng rất chỉn chu”.

Chia sẻ về kinh nghiệm Hàn Quốc, Thẩm phán Nagahashi Masanori cho biết, ở Hàn Quốc mỗi năm có khoảng 1.100.000 vụ án dân sự, trừ án hôn nhân gia đình và án hành chính. Trong đó yêu cầu hòa giải khoảng 7000 vụ, vụ án được hòa giải, vụ án được đưa ra hòa giải khoảng 46.000 vụ, tổng số 53.000 vụ, chiếm 4,8%; Tổng số vụ hòa giải thành khoảng 2.700 vụ, chiếm 37,7%; vụ án được đưa ra hòa giải 22.000 vụ, 47%, tổng số là 24.700 vụ.

Về cơ quan hòa giải ở Hàn Quốc có Thẩm phán phụ trách hòa giải, Ban hòa giải, Hòa giải viên phụ trách, Hòa giải viên thường trực ( Trung tâm hòa giải), cơ quan hòa giải liên kết ngoài. Khi hòa giải, sử dụng người hòa giải khác nhau tùy theo số lượn vụ án giải quyết tại các Tòa án. Những tòa nhỏ dưới 30 Thẩm phán chỉ có Ban hòa giải tiến hành hòa giải;  Tòa án có từ 70-200 Thẩm phán thì thành lập Trung tâm Hòa giải và bổ nhiệm Hòa giải viên thường trực;  Tòa án có quy mô lớn khoảng 400 Thẩm phán thì có Ban hòa giải, Hòa giải viên phụ trách, Trung tâm hòa giải, chế độ hòa giải liên kết ngoài.

Về Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án Việt Nam, Thẩm phán góp ý, nên thu phí hòa giải, dù ở mức thấp để các bên tham gia có ý thức hơn; nếu lấy việc hòa giải thành hay không để làm căn cứ tính thu lao thì sẽ có nguy cơ Hòa giải viên ép đương sự hòa giải; Cần cân nhắc xem có phải tính “thời gian hòa giải” và thời hiệu khởi kiện vụ án hay không đối với trường hợp bị coi là lạm dụng quyền yêu cầu hòa giải nhưng chỉ yêu cầu nhưng không có mặt tại phiên hòa giải…

Ths Nguyễn Thị Mai, Chánh án TAND tp Hải Phòng trình bày tham luận xung quanh 6 nội dung còn có ý kiến khác nhau. Về phạm vi điều chỉnh, ThS Mai nghiêng về phương án 2, cần mở rộng phạm vi hòa giải, thể hiện đúng tinh thần khi xây dựng Luật là xây dựng cơ chế pháp lý mới để các bên lựa chọn khi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, đối thoại, đồng thời không chồng chéo với các cơ chế pháp lý hiện hành.

Về kinh phí, người tham gia hòa giải, đối thoại phải chịu lệ phí. Về Phó giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm Hòa giải, đối thoại, TAND Tp Hải Phòng nhất trí quan điểm thứ nhất, quy định Giám đốc Trung tâm Hòa giải, Đối thoại là Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi đặt Trung tâm; Phó giám đốc Trung tâm là một Thẩm phán do Chánh án Tòa án nơi đặt Trung tâm phân công là hợp lý.

Về điều kiện bổ nhiệm, đối với Luật sư, nhà chuyên môn khác Luật chỉ cần yêu cầu có kinh nghiệm, không cần giới hạn 10 năm kinh nghiệm.

Về bảo mật thông tin, không chỉ Hòa giải viên, Đối thoại viên mà các cơ quan, tổ chức vi phạm cũng bị xử lý.

Ths Ung Thị Xuân Hương, Chánh án TAND tp HCM chia sẻ kinh nghiệm 3 tháng thí điểm hòa giải, đối thoại, những thành công và hạn chế, vướng mắc. Trong đó hòa giải thành dân sự 40,67%; hôn nhân gia đình 83,81%; Kinh doanh thương mại 34,62%; Lao động 44,44%; Hành chính 26,92%… Hạn chế hiện nay là người dân chưa nhận thức được lợi ích, tầm quan trọng của hòa giải, đối thoại; tỷ lệ đơn hành chính chưa cao; hình thức hòa giải chưa linh hoạt; số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên chưa đủ; cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.

Góp ý dự thảo, Chánh án TAND tp HCM đề nghị bổ sung chức danh Thư ký giúp việc cho Hòa giải viên, Đối thoại viên; tiêu chuẩn Hòa giải viên, Đối thoại viên nên rút thời gian kinh nghiệm xuống 5 năm; về thù lao và lương cho Hòa giải viên, Đối thoại viên, Thư ký cần quy định cụ thể thù lao, lương, bảo hiểm xã hội và tính thâm niên; về thời hạn hòa giải, đối thoại cần kéo dài quá thời hạn thì phải quy định rõ là kéo dài bao lâu; Luật cũng cần quy định rõ Hòa giải viên sẽ làm gì khi có trường hợp một bên vì lý do bất khả kháng không thể thực hiện cam kết trong phiên hòa giải.

 

THÁI VŨ - HÙNG LAN