Huỳnh Xuân T phải bị xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 với tình tiết định khung hình phạt tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015

Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử có đăng bài “Có áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo Huỳnh Xuân T không?” ngày 05/12/2024 của tác giả Trần Minh Huy (Thẩm phán TAND huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum). Chúng tôi có quan điểm khác với các quan điểm được đưa ra trong bài viết.

Bài viết trao đổi về vụ việc có nội dung như sau:

Bị cáo Huỳnh Xuân T đã có 04 tiền án về tội “trộm cắp tài sản” và “tàng trữ trái phép chất ma túy”, như sau:

- Lần thứ 1: Ngày 16/12/2016 bị cáo bị xử phạt 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích.

- Lần thứ 2: Ngày 22/9/2020, bị cáo bị xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích.

- Lần thứ 3: Ngày 20/12/2022, bị cáo trộm cắp tài sản trị giá 500.000 đồng, Tòa án xét xử bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS và có áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Chưa được xóa án tích.

- Lần thứ 4: Bị can tiếp tục trộm cắp tài sản trị giá 300.000 đồng.

Trường hợp này thực tế truy tố, xét xử có 02 quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.

Quan điểm thứ hai: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.

Qua nghiên cứu nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng Huỳnh Xuân T phải bị xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 với tình tiết định khung hình phạt “tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 bởi những căn cứ và lập luận sau đây:

Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm có nêu:

“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”.

- Đối với bản án thứ nhất: Ngày 16/12/2016 bị cáo Huỳnh Xuân T bị xử phạt 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích.

Điểm a, điểm b khoản 1 Điều 55 BLHS năm 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội có nêu:

“Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

1. Đối với hình phạt chính:

a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

b) Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;”.

Trong khi đó, khoản 1, khoản 2 Điều 70 BLHS 2015 quy định về đương nhiên được xóa án tích có nêu:

“1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án…”.

Căn cứ vào các quy định nêu trên, trong bản án thứ nhất, tổng hợp hình phạt đối với Huỳnh Xuân T là 03 năm tù, thời điểm T chấp hành xong án phạt tù là ngày 16/12/2019. Thời điểm T được xóa án tích được xác định vào ngày 16/12/2021.

- Đối với bản án thứ hai: Ngày 22/9/2020, bị cáo Huỳnh Xuân T bị xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích. Quan điểm giải quyết vụ việc trong bản án thứ hai chưa thực sự phù hợp bởi:

Nhìn nhận quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999 và đến BLHS năm 2015, có thể thấy, các tội phạm cụ thể được quy định trong các BLHS nêu trên hầu hết đều sử dụng yếu tố nhân thân về tiền án, tiền sự của bị can để làm tình tiết định tội khi hành vi nguy hiểm gây ra hậu quả chưa đủ định lượng cấu thành tội phạm quy định tại khung cơ bản của điều luật. Đối với trường hợp hành vi nguy hiểm gây ra hậu quả đã đủ định lượng cấu thành tội phạm tại khung cơ bản thì tiền sự được sử dụng để xác định nhân thân của bị can; tiền án được sử dụng để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quay trở lại với nội dung vụ án, bản án thứ nhất của Huỳnh Xuân T chưa được xóa án tích mà T lại tiếp tục thực hiện tội phạm mới. Đối với bản án thứ hai này, dữ liệu vụ việc không nêu rõ hành vi trộm cắp tài sản của Huỳnh Xuân T có đủ định lượng hay không. Tuy nhiên, từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm có thể đưa ra nhận định:

+ Nếu hành vi trộm cắp tài sản của Huỳnh Xuân T không đủ định lượng thì tiền án về tội trộm cắp tài sản trong bản án thứ nhất được xem xét là dấu hiệu định tội “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015; còn tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong bản án thứ nhất phải được tính để xác định tái phạm, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với T tại điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

+ Nếu hành vi trộm cắp tài sản của Huỳnh Xuân T không đủ định lượng thì tiền án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy trong bản án thứ nhất được tính để xác định tái phạm, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với T tại điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.

Lập luận trên được chúng tôi đưa ra trên cơ sở quy định tại điểm b tiểu mục 7.3 Mục 7 của Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS như sau:

“Trường hợp các tiền án của bị cáo không được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” vì hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì các tiền án của bị cáo phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Ví dụ 2: K có hai tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Cướp tài sản”, đều chưa được xóa án tích mà lại trộm cắp tài sản có giá trị ba trăm năm mươi ngàn đồng. Trong trường hợp này tiền án về tội “cướp tài sản” được xem xét là dấu hiệu “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” để xác định cấu thành tội phạm của lần trộm cắp tài sản. Còn tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với K”.

Mặc dù Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP nêu trên được ban hành nhằm mục đích hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS năm 1999, đến nay BLHS năm 1999 đã hết hiệu lực thi hành và pháp luật hình sự hiện hành là BLHS năm 2015. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có Nghị quyết nào thay thế Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP. Mặt khác, cấu thành tội trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 về cơ bản không có nhiều điểm khác biệt so với cấu thành tội trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 nên hiện tại, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể nghiên cứu, vận dụng tinh thần của Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP để giải quyết các vụ án cụ thể.

Trong bản án thứ nhất, thời điểm T được xóa án tích được xác định vào ngày 16/12/2021, mặc dù T đã chấp hành xong hình phạt chính của bản án thứ nhất, nhưng T lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới trong bản án thứ hai. Do đó, T vẫn chưa được xóa án tích đối với bản án thứ nhất. Trong bản án thứ hai, ngày 22/9/2020, bị cáo Huỳnh Xuân T bị xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, thời điểm T chấp hành xong hình phạt tù trong bản án này vào ngày 22/3/2022. Thời hạn xóa án tích của bản án thứ nhất được bắt đầu lại kể từ ngày 22/3/2022, bởi khoản 2 Điều 73 BLHS 2015 quy định về cách tính thời hạn để xóa án tích có nêu: “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành”.

- Trong bản án thứ 3: Ngày 20/12/2022, bị cáo T trộm cắp tài sản trị giá 500.000 đồng, Tòa án xét xử bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS và có áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Quan điểm này chúng tôi cho rằng không thật sự phù hợp, bởi bản án thứ 2 T được xác định là tái phạm. Căn cứ vào các quy định và phân tích được đề cập ở trên, trong bản án thứ 3 này, Huỳnh Xuân T phải bị xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 và có áp dụng tình tiết định khung định khung hình phạt “tái phạm nguy hiểm” tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015. Bởi vì khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015 quy định: “Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng”.

- Trong lần phạm tội thứ 4: Huỳnh Xuân T tiếp tục trộm cắp tài sản trị giá 300.000 đồng. Tương tự trong bản án thứ 3, trong lần phạm tội thứ tư này, chúng tôi cho rằng Huỳnh Xuân T phải bị xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 và có áp dụng tình tiết định khung hình phạt “tái phạm nguy hiểm” tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.

Trên đây là một số quan điểm của chúng tôi về bài viết, mong nhận được sự trao đổi của bạn đọc.

LẠI SƠN TÙNG - PHAN VĂN SƠN (Học viện Cảnh sát nhân dân)

Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Mai Hiền.