Một số hạn chế, vướng mắc trong quy định về thừa kế và kiến nghị hoàn thiện

Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định về thừa kế của BLDS năm 2005; từ đó khắc phục một số hạn chế, vướng mắc, bảo đảm áp dụng hiệu quả trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, một số quy định về thừa kế hiện nay vẫn còn bộc lộ hạn chế, vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Bài viết này, tác giả tập trung phân tích quy định của pháp luật, chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế trong quy định về chia thừa kế theo hàng thừa kế và quy định về hạn chế phân chia di sản; từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện.

1. Đặt vấn đề

Thừa kế theo pháp luật là chế định quan trọng nhằm bảo đảm quyền sở hữu, quyền định đoạt tài sản và ổn định các quan hệ gia đình, xã hội. BLDS năm 2015 quy định ba hàng thừa kế theo mức độ gần gũi về quan hệ hôn nhân – huyết thống. Đồng thời, quy định về hạn chế phân chia di sản tiếp tục được ghi nhận trên cơ sở kế thừa quy định tại BLDS năm 2005. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy nhiều tình huống phức tạp, trong đó quy định hiện hành chưa bao quát hết hoặc còn thiếu rõ ràng, dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất.

2. Quy định về chia thừa kế theo hàng thừa kế theo BLDS năm 2015 – hạn chế, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 quy định như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, có 03 hàng thừa kế, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau (khoản 2). Đồng thời, điều luật cũng quy định: Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản (khoản 3).

Điều đó có nghĩa là, trường hợp những người ở hàng thừa kế sau sẽ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc không có quyền hưởng di sản theo luật định hoặc thuộc trường hợp bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy, quy định của pháp luật đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Để bạn đọc dễ hình dung, tác giả xin nêu một ví dụ minh họa nhưa sau:

Anh A và chị B là vợ chồng, kết hôn hợp pháp, có 02 người con chung và có tạo lập được tài sản chung là một ngôi nhà 05 tầng xây trên diện tích 280m2; năm 2023 anh A chết, không để lại di chúc. Năm 2024, ông C, bà D là bố mẹ đẻ của anh A chết, không để lại di chúc. Các người con của ông C, bà D là anh E và anh H yêu cầu chia di sản thừa kế của ông C, bà D thuộc khối tài sản của anh A để lại là ngôi nhà 05 tầng mà hiện mẹ con chị B đang sử dụng.  

Theo quy định của BLDS năm 2015, trường hợp ông C, bà D chết, không để lại di chúc, không có văn bản khước từ việc nhận phần di sản của anh A. Do đó, đối với tài sản là ngôi nhà của anh A, chị B, nếu có yêu cầu chia thì được xác định ½ ngôi nhà là di sản của anh A. Phần di sản này do anh A không có di chúc nên sẽ được chia theo pháp luật, trong đó ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được chia 01 phần di sản thừa kế bằng những người thừa kế khác cùng hàng. Sau đó, ông C, bà D chết, phần di sản này thuộc phần di sản để lại và các con của ông bà là anh E, anh Hcó quyền yêu cầu chia thừa kế.

Có thể thấy, về mặt pháp lý, yêu cầu chia di sản thừa kế của anh E, anh H là không trái pháp luật, và thực tế, có cơ sở pháp lý để Tòa án chấp nhận yêu cầu này. Tuy nhiên, xét về mặt thực tế, tài sản là căn nhà 05 tầng xây trên diện tích 280m2 là tài sản chung của vợ chồng anh A, chị B, công sức tạo lập được chỉ có anh A, chị B đóng góp, hai anh E và H không có đóng góp gì. Sau khi anh A chết, đây là nơi ở của 3 mẹ cong chị B. Nếu xem xét, giải quyết yêu cầu chia thừa kế của anh E, anh H chưa thực sự phù hợp vì xét từ góc độ thực tiễn, về công sức đóng góp tạo lập tài sản,… Tuy nhiên, quy định về chia thừa kế hiện nay không có quy định hạn chế hoặc có hướng giải quyết tối ưu cho trường hợp này. Điều này tạo sự lúng túng, vướng mắc cho Tòa án trong thực tiễn giải quyết các yêu cầu này.

Để khắc phục hạn chế này, tác giả kiến nghị trong thời gian tới, khi sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu, bổ sung quy định việc chia thừa kế cần dựa trên sự đánh giá công sức tạo lập khối di sản đó. Đối với các chủ thể thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết thì không đặt ra điều kiện này do có quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.  

3. Quy định về hạn chế phân chia di sản – hạn chế, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Điều 661 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thoả thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.”.

Nội dung về hạn chế phân chia di sản cũng được ghi nhận tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể, khoản 3 Điều 66 Luật này quy định:

“3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.”.

Nội dung này được hướng dẫn chi tiết tại Điều 5 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP) như sau:

“Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 661 của Bộ luật Dân sự là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...

Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.

Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 m2. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con.”.

Như vậy, nội dung hướng dẫn nêu trên đã làm rõ được thế nào là “việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình”. Việc giải thích, hướng dẫn cụ thể này là hoàn toàn cần thiết, bới lẽ, việc xác định “ảnh hưởng nghiêm trọng” là vấn đề mang tính định tính, không mang tính định lượng nên việc đánh giá, xác định trong từng trường hợp sẽ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền, và do đó, các trường hợp xác định thế nào là “ảnh hưởng nghiêm trọng” sẽ cho ra các kết quả khác nhau, từ đó không bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, theo đó, việc xác định chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình là trường hợp nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... . Như vậy, “ảnh hưởng nghiêm trọng” được xác định là trường hợp không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất. Tuy nhiên, hướng dẫn này chưa bao quát và triệt để, bởi lẽ sẽ tồn tại trường hợp không có chỗ ở, tuy nhiên, có nguồn thu nhập để chuyển chỗ ở khác như có căn cứ chứng minh có nguồn thu để thuê nhà, thiết lập chỗ ở mới,… Do đó, nếu chỉ căn cứ vào lý do là không có chỗ ở mà không xem xét các điều kiện khác nữa để ra quyết định chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định là không quá 03 năm là chưa bảo đảm giải quyết các yêu cầu thực tế đặt ra, chưa thực sự bảo đảm quyền lợi của những đồng thừa kế khác.

Quy định về hạn chế chia di sản là quy định mang tính nhân văn, bảo đảm quyền lợi cho vợ hoặc chồng còn sống và gia đình; tuy nhiên, để quy định này thực sự mang ý nghĩa và giá trị nhân văn, không bị lợi dụng để cố tình trì hoãn việc chia di sản thì vấn đề này cần được giải quyết một cách triệt để hơn.

Do đó, tác giả kiến nghị, cần sớm ban hành Án lệ trong trường hợp này, theo đó, nội dung được chọn lựa làm án lệ cần xác định cụ thể việc ảnh hưởng nghiêm trọng khi chia di sản, bao gồm đầy đủ các điều kiện như không có chỗ ở và cũng không có khả năng để thiết lập một chỗ ở nào khác,… Có như vậy mới bảo đảm việc giải quyết triệt để vấn đề, bảo đảm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các đồng thừa kế trong việc chia di sản thừa kế.

Kết luận

BLDS năm 2015 đã tạo nền tảng quan trọng cho việc bảo đảm quyền thừa kế. Tuy nhiên, trước sự biến đổi của cấu trúc gia đình và sự đa dạng của quan hệ thân nhân trong xã hội hiện đại, những quy định hiện hành về hàng thừa kế, về hạn chế phân chia di sản đã dần bộc lộ nhiều hạn chế. Việc sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn chi tiết hơn là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tính công bằng, thống nhất và phù hợp thực tiễn cho chế định thừa kế theo pháp luật.

PHẠM THỊ QUỲNH NGA (TANDTC)

Ảnh: nguồn Internet