Bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra trong Luật Trí tuệ nhân tạo và một số giải pháp, kiến nghị

Luật trí tuệ nhân tạo đã được Quốc hội thông qua. Qua nghiên cứu nội dung luật này, tôi có một số phân tích, đánh giá, đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị trong áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra, với mong muốn bảo đảm phát huy hiệu lực, hiệu quả của luật khi triển khai vào thực tiễn.

1. Đặt vấn đề

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành công nghệ mũi nhọn của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, mở ra nhiều cơ hội to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, cấp bách về quản lý, đạo đức và an toàn mà các quy định pháp luật hiện hành chưa bao quát đầy đủ. Khoảng cách giữa tốc độ phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và tốc độ hoàn thiện khung pháp lý đang ngày càng nới rộng. Do đó, các vướng mắc, bất cập không còn là nguy cơ tiềm tàng mà đã trở thành những vấn đề hiện hữu, cấp bách cần sớm được giải quyết[1]. Thực tiễn đó đòi hỏi cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý để điều tiết các vấn đề phát sinh từ hoạt động phát triển, cung cấp, triển khai, sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam, hoặc có hệ thống trí tuệ nhân tạo tạo ra kết quả được sử dụng tại Việt Nam. Việc xây dựng và ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo là hết sức cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.

2. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo

Điều 29 Luật Trí tuệ nhân tạo quy định về xử lý vi phạm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trong đó nêu rõ: Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan đến trí tuệ nhân tạo thì tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi vi phạm thì bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự.

Tại khoản 2, 3, 4 Luật này nêu rõ:

2. Trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao được quản lý, vận hành và sử dụng đúng quy định nhưng vẫn phát sinh thiệt hại thì bên triển khai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau khi bồi thường, bên triển khai yêu cầu nhà cung cấp, nhà phát triển hoặc các bên liên quan hoàn trả khoản tiền bồi thường nếu có thỏa thuận giữa các bên.

3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 2 Điều này được miễn trừ trong các trường hợp sau:

a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; 

b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo bị bên thứ ba xâm nhập, chiếm quyền điều khiển hoặc can thiệp trái pháp luật thì bên thứ ba phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trường hợp bên triển khai, nhà cung cấp có lỗi trong việc để hệ thống bị xâm nhập, chiếm quyền điều khiển hoặc can thiệp trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.”.

Như vậy, Luật này quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như mức độ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra.

Các quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra được dẫn chiếu đến việc áp dụng các quy định có liên quan của pháp luật dân sự. Theo đó, khi phát sinh các yêu cầu về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra thì cần áp dụng quy định của Luật Trí tuệ nhân tạo và các quy định có liên quan của pháp luật dân sự.

Điều 13 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định:

“Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”.

Điều 170 BLDS năm 2015 quy định quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại như sau:

“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại.”.

Những nội dung này cơ bản cũng đã được ghi nhận tại quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra tại Điều 29 Luật Trí tuệ nhân tạo nêu trên.

Việc bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra chủ yếu được áp dụng bởi các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Chương XX về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Lý giải thêm về quy định bồi thường thiệt hại, tại Tờ trình số 1039-TTr ngày 07/11/2025 của Chính phủ nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo pháp luật dân sự. Nội dung then chốt là thiệt hại do hệ thống Trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao gây được xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Theo đó, nhà cung cấp và bên triển khai hệ thống phải chịu trách nhiệm bồi thường kể cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp được miễn trừ theo Bộ luật Dân sự. Trường hợp nhiều chủ thể cùng tham gia (phát triển, cung cấp, triển khai) thì phải liên đới bồi thường; trách nhiệm bồi thường được xác định dựa trên mức độ kiểm soát thực tế, khả năng năng dự báo và các biện pháp quản lý rủi ro mà mỗi bên đã áp dụng.”.

3. Một số giải pháp, kiến nghị trong áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra

Có thể thấy, việc xây dựng và ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo là vô cùng cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng được đòi hỏi tất yếu khách quan trong việc điều tiết các mối quan hệ phát sinh từ việc phát triển, cung cấp, triển khai, sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam, hoặc có hệ thống trí tuệ nhân tạo tạo ra kết quả được sử dụng tại Việt Nam. Việc xây dựng và ban hành quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra là cần thiết; tuy nhiên, để quy định này áp dụng hiệu quả trong thực tiễn thi hành sau này, tác giả xin nêu một số kiến nghị sau đây.

Thứ nhất, khoản 2 Điều 29 Luật Trí tuệ nhân tạo ghi nhận:

Trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao được quản lý, vận hành và sử dụng đúng quy định nhưng vẫn phát sinh thiệt hại thì bên triển khai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. ...”.

Như vậy, nội dung điều khoản xác định trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao, tuy nhiên, trong nội dung Điều 3 Luật Trí tuệ nhân tạo về giải thích từ ngữ hiện chưa có nội dung nào giải thích cụ thể thế nào là hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao mà chỉ có nội dung khái niệm hệ thống trí tuệ nhân tạo tại khoản 2 như sau:

"Hệ thống trí tuệ nhân tạo là hệ thống dựa trên máy, được thiết kế để thực hiện các năng lực trí tuệ nhân tạo với các mức độ tự chủ khác nhau, có khả năng tự thích nghi sau khi được triển khai; căn cứ vào các mục tiêu được xác định rõ ràng hoặc được hình thành một cách ngầm định, hệ thống suy luận từ dữ liệu đầu vào để tạo ra các đầu ra như dự đoán, nội dung, khuyến nghị hoặc quyết định có thể gây ảnh hưởng tới môi trường vật lý hoặc môi trường ảo.".

Do dó, việc xác định trong thực tiễn để đánh giá, xác định và áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp thế nào là hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao là chưa cụ thể, có thể gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

Tại khoản 5 Điều 29 Luật này quy định: "Chính phủ quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra.". Do vậy, tác giả kiến nghị, Chính phủ khi ban hành văn bản quy định chi tiết về nội dung này cần thiết bổ sung quy định giải thích rõ nội hàm khái niệm hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao để bảo đảm việc hiểu và áp dụng luật thống nhất trong thực tiễn.

Thứ hai, khoản 3 Điều 29 Luật Trí tuệ nhân tạo quy định:

"3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 2 Điều này được miễn trừ trong các trường hợp sau:

a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; 

b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.".

Nội dung điều khoản này cần được hiểu là việc miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong các trường hợp được liệt kê, tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại vẫn được thực hiện trong các trường hợp này khi pháp luật có quy định.

Liên hệ, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015 về căn cứ phát sịnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ghi nhận như sau:

"2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.".

Như vậy, theo quy định của BLDS năm 2015 thì việc bồi thường thiệt hại vẫn được thực hiện trong các trường hợp miễn trừ nếu hai bên có thỏa thuận. Việc ghi nhận nội dung này thể hiện tính nhất quán trong quy định của pháp luật dân sự là tôn trọng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Nếu so sánh quy định tại hai nội dung điều khoản của BLDS năm 2015 và Luật Trí tuệ nhân tạo 2025 mà tôi vừa viện dẫn, phân tích ở trên thì dường như thấy sự thiếu thống nhất khi trong Luật Trí tuệ nhân tạo không quy định trường hợp bồi thường khi các bên có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên, nội dung điều khoản này cần được liên hệ tới khoản 1 Điều 29 Luật Trí tuệ nhân tạo quy định: "nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự.". Như vậy, cần hiểu quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra được áp dụng theo quy định của pháp luật dân sự, tức là trường hợp các bên có thỏa thuận khác thì vẫn xác định trách nhiệm bồi thường theo thỏa thuận đó kể cả thuộc các trường hợp miễn trừ theo luật định.

Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng thống nhất quy định này, trong thời gian tới, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần quán triệt nội dung này, bảo đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất trong thực tiễn.

Kết luận

Việc xây dựng và ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay, tuy nhiên, để Luật thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả trong cuộc sống khi chính thức có hiệu lực thi hành thì cần có những giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện. Với một số kiến nghị nêu trên, tác giả hy vọng góp phần bảo đảm thống nhất trong cách hiểu và áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do hệ thống trí tuệ nhân tạo gây ra vào thực tiễn sau này.

PHẠM THỊ QUỲNH NGA (TANDTC)

Ảnh: nguồn Internet.