Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bài viết phân tích một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan như cha, mẹ, con và người thứ ba trong quan hệ về tài sản với vợ, chồng.

1. Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung 

1.1. Về quyền yêu cầu chia tài sản chung 

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là quyền gắn liền với cá nhân vợ, chồng nhằm giải quyết các nhu cầu liên quan đến tài sản chung trong cuộc sống. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân gắn liền với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nên chỉ thuộc quyền định đoạt trên cơ sở ý chí tự nguyện của vợ, chồng. Với tính chất đó, có thể thấy việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ thuộc về vợ, chồng, là quyền của bản thân vợ, chồng, mà bất cứ người nào khác đều không có quyền yêu cầu chia tài sản đó.

Có quan điểm cho rằng, người thứ ba cũng có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản với người thứ ba, nhưng cố ý không chịu chia tài sản chung nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Khi người chủ nợ khởi kiện đòi nợ và được Tòa án tuyên về nghĩa vụ trả nợ của một bên vợ hoặc chồng đối với người thứ ba thì vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của mình.

Trong quá trình thi hành án, “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) và thông báo cho vợ chồng biết… Trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày… Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng… giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”. “Điều đó đồng nghĩa với việc Chấp hành viên có quyền chia tài sản chung của vợ chồng”, tuy nhiên “điều này mâu thuẫn với Luật HN&GĐ năm 2014”.

Do đó, “để dung hòa lợi ích của các bên thì Luật HN&GĐ năm 2014 cần mở rộng phạm vi quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tức là cho phép người thứ ba khi bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp được quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng mà một bên vợ, chồng đó đang có nghĩa vụ về tài sản với họ”. Đây là quan điểm được nhiều người ủng hộ hiện nay. Tuy nhiên, theo tác giả, cần xác định rõ những điểm cơ bản sau:

- Quyền khởi kiện của người thứ ba để đòi lại tài sản đối với vợ hoặc chồng hoàn toàn khác với việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Dù người thứ ba có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản mà vợ, chồng được chia đó vẫn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, mà không đương nhiên trở thành tài sản của người thứ ba. Vì vậy, người thứ ba vẫn phải kiện đòi lại tài sản đối với người vợ hoặc chồng có nghĩa vụ với mình.

- Chấp hành viên có quyền xác định phần sở hữu của vợ chồng theo quy định của pháp luật HN&GĐ và ngay cả trong trường hợp Chấp hành viên “tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng… giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ” thì cũng không thể hiểu là Chấp hành viên “có quyền chia tài sản chung của vợ chồng”. Trong trường hợp này, Chấp hành viên chỉ xác định phần quyền sở hữu của vợ hoặc chồng là người phải thi hành án trên cơ sở nguyên tắc chung về tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ để kê biên phần tài sản đó, nhằm đảm bảo thi hành án; còn quyền chia tài sản chung chỉ thuộc về vợ, chồng hoặc khi vợ chồng không thống nhất được thì có quyền yêu cầu Tòa án chia.

1.2. Về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu

Điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định khá rõ các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của các chủ thể khác như lợi ích chung của gia đình, của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, của người thứ ba khác. Tuy nhiên, Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 không có quy định tương ứng về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các yêu cầu tuyên bố việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu.

Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu thì phải thực hiện thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Các quy định này là cơ chế đảm bảo tính hợp pháp của các giao dịch liên quan đến tài sản quan trọng của vợ chồng. Tuy nhiên, khi vợ chồng chia tài sản chung là tiền, thì dù số lượng tiền có giá trị lớn nhưng pháp luật không đòi hỏi vợ chồng phải công chứng văn bản thỏa thuận. Đây là một “lỗ hổng” pháp lý tạo cơ hội cho vợ, chồng trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản đối với người thứ ba. Do đó, cần có cơ chế kiểm soát việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.

1.3. Về hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung 

Hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ (Nghị định số 126/2014). Tuy nhiên, các quy định này chưa rõ ràng, có thể dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau và chưa tạo cơ sở pháp lý thống nhất để giải quyết các vấn đề phát sinh. Điều đó thể hiện qua một số nội dung sau:

- Chưa quy định rõ ràng về việc sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì những thu nhập của mỗi bên vợ, chồng có được sau thời điểm chia (như tiền lương, tiền thưởng…) mà không liên quan đến phần tài sản đã được chia từ tài sản chung là tài sản chung hay tài sản riêng? Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014 đều không quy định rõ ràng và thống nhất về vấn đề này.

- Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định và cũng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với đời sống chung của gia đình. Tuy nhiên, các văn bản trên chưa quy định cụ thể về trường hợp vợ, chồng thỏa thuận chia hết tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì đời sống chung của gia đình cần được duy trì, đảm bảo bằng cách nào?

Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 126/2014 quy định: “Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.

Theo đó, kể từ khi việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà phân biệt được đó là thu nhập do lao động, sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, thì là tài sản riêng của vợ, chồng; còn nếu không xác định, phân biệt được thì sẽ là tài sản chung của vợ chồng.

Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng, khó xác định trong thực tế. Khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích đầu tư, kinh doanh riêng mà vợ hoặc chồng đưa phần tài sản riêng được chia vào sản xuất, kinh doanh thì rất khó xác định, phân biệt tài sản có được là do hoạt động sản xuất, kinh doanh hay là hoa lợi, lợi tức. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, tài sản “có được” đó có thể từ cả hai nguồn gốc trên. Quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 126/2014 là chưa rõ ràng, dẫn tới sự phức tạp và khó hiểu, đồng thời mâu thuẫn với Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 126/2014.

Theo tác giả, xuất phát từ bản chất của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, căn cứ Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014, có thể thấy những tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực, về nguyên tắc là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.

1.4. Về chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung 

Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây là quy định khá rõ ràng và tránh được sự hiểu lầm là sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có thể thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, nên không thể đặt ra việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng. Đây là hai nội dung hoàn toàn khác nhau nên cần được phân biệt rõ ràng. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể hiểu là sự thỏa thuận của vợ chồng về việc chấm dứt hiệu lực các hệ quả pháp lý phát sinh từ việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014. Do đó, các căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo Điều 33, Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 như trước khi có việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia từ tài sản chung vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.

Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được cả hai vợ chồng thỏa thuận thống nhất. Nếu chỉ có một bên vợ hoặc chồng muốn chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì không thực hiện được, trong trường hợp có tranh chấp thì Tòa án có giải quyết không và giải quyết như thế nào? Theo quy định của BLTTDS năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải quyết “yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án”.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật 

Thứ nhất, về quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Xuất phát từ bản chất quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một quyền nhân thân gắn liền với tài sản của chính bản thân vợ hoặc chồng, nên chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu chia. Mọi chủ thể khác có liên quan về tài sản với vợ, chồng đều không có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Các chủ thể khác liên quan tới vợ, chồng dựa trên các căn cứ làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa vợ hoặc chồng đối với các chủ thể này thì có quyền, nghĩa vụ tương ứng trong phạm vi quan hệ tài sản đã được xác lập với vợ hoặc chồng, mà không liên quan đến quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Do đó, quy định tại Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 là hợp lý, phù hợp về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cần có sự hướng dẫn rõ ràng, thống nhất giữa các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 với các văn bản pháp luật tố tụng dân sự và thi hành án dân sự, để tránh sự không thống nhất về nhận thức và áp dụng.

Thứ hai, cần bổ sung quy định về yêu cầu tuyên bố việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu tại Điều 29 BLTTDS năm 2015 để đảm bảo sự tương thích và thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức, đồng thời có cơ sở pháp lý để người có quyền, lợi ích liên quan thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Luật HN&GĐ năm 2014 cũng cần quy định rõ phạm vi những người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu.

Theo tác giả, những người này có thể là cha, mẹ, con (những người thân thích của vợ, chồng mà vợ, chồng có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) và người thứ ba (vợ, chồng có nghĩa vụ trả nợ, bồi thường thiệt hại).

Thứ ba, cần quy định cơ chế, biện pháp kiểm soát việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản. Theo đó, việc chia tài sản chung có giá trị lớn trong thời kỳ hôn nhân cần được sự công nhận của cơ quan có thẩm quyền như cơ quan công chứng, Tòa án.

Thứ tư, về hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo tác giả, điều chỉnh hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần quy định rõ một số nội dung sau:

- Kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực, tiền lương, tiền thưởng gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của vợ, chồng mà không liên quan đến phần tài sản được chia từ tài sản chung vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, các khoản thu nhập hợp pháp khác phát sinh sau khi chia tài sản chung vẫn là tài sản chung của vợ chồng và được xác định theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014.

- Tài sản mà vợ, chồng được chia từ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hoa lợi, lợi tức từ những tài sản này cũng như tài sản thu được do hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh từ phần tài sản riêng được chia cho mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Do đó, khoản 3 Điều 14 Nghị định số 126/2014 là không cần thiết vì gây khó hiểu, không phù hợp với bản chất và mục đích của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nên cần được bãi bỏ.

- Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có nghĩa vụ như nhau đóng góp vào nhu cầu đời sống chung của gia đình.

 

 

TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN

Theo kiemsat.vn

HĐXX xét xử phúc thẩm một vụ án phân chia tài sản của vợ chồng - Ảnh: BVPL