.jpg)
Một số vướng mắc trong áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến hành vi sử dụng vũ khí quân dụng và kiến nghị
Bài viết phân tích các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 Bộ luật Hình sự trong mối quan hệ với các quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 và Thông tư số 75/2024/TT-BCA ngày 15/11/2024 của Bộ Công an.
Đặt vấn đề
Để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và tăng cường hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm, Quốc hội đã ban hành Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 (Luật số 42/2024/QH15, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025) (sau đây gọi tắt là Luật QLVK 2024), thay thế Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 (Luật số 14/2017/QH14) cùng các sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Luật số 50/2019/QH14). Đồng thời, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 75/2024/TT-BCA ngày 15/11/2024 để hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật QLVK 2024 (sau đây gọi tắt là Thông tư 75), tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công tác quản lý và xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến vũ khí.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các hành vi sử dụng vũ khí quân dụng vẫn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc. Qua công tác phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương đã phát sinh vấn đề chưa có tiền lệ: có truy cứu trách nhiệm hình sự tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” (Điều 304 BLHS 2015) trong các trường hợp đối tượng liên quan với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo các quy định mới này hay không? Bài viết tập trung phân tích các vướng mắc nêu từ thực tiễn, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi.
1. Một số vướng mắc và cơ sở pháp lý liên quan
1.1. Việc xác định vũ khí quân dụng và khởi tố tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” (Điều 304 BLHS 2015)
Một trong những vướng mắc trong thực tiễn là việc xác định một vật có thuộc phạm vi “vũ khí quân dụng” để làm cơ sở khởi tố tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS 2015 hay không. Vấn đề này phát sinh khi đối tượng sử dụng các loại dao, kiếm, giáo, mác, thương, dao găm, lưỡi lê, đao, mã tấu hoặc các loại dao có tính sát thương cao để thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 304 BLHS 2015, người nào sử dụng trái phép vũ khí quân dụng sẽ bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm. Để xác định một vật có phải là “vũ khí quân dụng” hay không, cần căn cứ vào các quy định tại Luật QLVK 2024 và Thông tư 75. Cụ thể: (1) Điểm d khoản 2 Điều 2 Luật QLVK 2024 quy định: “Vũ khí quân dụng bao gồm… dao có tính sát thương cao quy định tại khoản 6 Điều này sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật”. (2) Khoản 6 Điều 2 Luật QLVK 2024 định nghĩa: “Dao có tính sát thương cao là dao sắc, dao nhọn thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành”. (3) Điểm b khoản 4 Điều 2 Luật QLVK 2024 quy định: “Dao có tính sát thương cao… sử dụng với mục đích để thực hiện hành vi phạm tội, gây rối, làm mất trật tự công cộng hoặc chống đối cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, người thi hành công vụ, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này, được coi là vũ khí thô sơ”.
Việc xác định dao có tính sát thương cao là “vũ khí quân dụng” đòi hỏi cơ quan điều tra phải làm rõ ý thức chủ quan và mục đích sử dụng của đối tượng, thông qua chứng cứ và kết luận giám định.
Từ các quy định trên, Luật QLVK 2024 đã điều chỉnh khái niệm “vũ khí quân dụng” theo hướng gắn với mục đích sử dụng trong tình huống cụ thể của đối tượng. Khi một loại dao có tính sát thương cao (thuộc danh mục do Bộ Công an ban hành) được sử dụng với ý thức chủ quan nhằm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật, nó được xếp vào nhóm “vũ khí quân dụng”. Ngược lại, nếu mục đích sử dụng là gây rối, chống đối hoặc thực hiện hành vi phạm tội khác, dao đó được coi là “vũ khí thô sơ”. Vướng mắc phát sinh khi cơ quan điều tra phải phân biệt ranh giới giữa “xâm phạm tính mạng, sức khỏe” và “gây rối, chống đối”. Nếu không có chứng cứ rõ ràng về mục đích sử dụng, việc khởi tố theo Điều 304 BLHS 2015 có thể thiếu cơ sở pháp lý.
1.2. Vướng mắc khi hành vi sử dụng vũ khí quân dụng là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm khác
Một vấn đề pháp lý khác là việc xác định có khởi tố thêm tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS 2015 khi hành vi sử dụng vũ khí quân dụng đã cấu thành tình tiết định khung tăng nặng của một tội phạm khác, chẳng hạn “dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 (tội “cố ý gây thương tích”) hoặc điểm c khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 (tội “giết người”) không?
Khi đối tượng sử dụng “vũ khí quân dụng” (Luật QLVK 2024 và Thông tư 75) để thực hiện hành vi phạm tội, hành vi này có thể xâm phạm đồng thời hai nhóm khách thể: (1) Trật tự quản lý nhà nước về vũ khí quân dụng – khách thể được bảo vệ bởi Điều 304 BLHS 2015. (2) Tính mạng, sức khỏe của con người – khách thể được bảo vệ bởi Điều 123 hoặc Điều 134 BLHS 2015. Theo khoản 1 Điều 304 BLHS 2015, hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng đã cấu thành một tội danh độc lập. Đồng thời, việc sử dụng vũ khí quân dụng trong quá trình thực hiện tội phạm khác (như “giết người” hoặc “cố ý gây thương tích”) được xem là tình tiết định khung tăng nặng, phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi (theo điểm a khoản 1 Điều 134 hoặc điểm c khoản 1 Điều 123 BLHS 2015). Theo nguyên tắc xử lý việc phạm nhiều tội tại BLHS 2015, nếu các hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành các tội phạm độc lập với các khách thể và cấu thành tội phạm riêng biệt, đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội danh tương ứng. Do đó, việc khởi tố cả hai tội danh là phù hợp với pháp luật, không vi phạm nguyên tắc “không xử lý hai lần về cùng một hành vi”, vì mỗi tội danh bảo vệ một khách thể riêng.
1.3. Vướng mắc trong trường hợp hành vi cấu thành tội độc lập
Một bất cập khác trong thực tiễn trường hợp đối tượng sử dụng các loại vũ khí quy định tại điểm d khoản 2 Điều 2 Luật QLVK 2024 thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng người bị hại không có đơn hoặc rút đơn yêu cầu khởi tố thì có xem xét xử lý, khởi tố đối với hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều 304 BLHS hay không? Theo điểm d khoản 2 Điều 2 Luật QLVK 2024, dao có tính sát thương cao được coi là “vũ khí quân dụng” khi được sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe con người trái pháp luật. Trong tình huống này, đối tượng đã dùng dao có tính sát thương cao để cố ý gây thương tích, điều này thỏa mãn yếu tố “mục đích xâm phạm sức khỏe trái pháp luật”. Do đó, hành vi sử dụng dao này có thể được xem là sử dụng “vũ khí quân dụng” trái phép, thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 304 BLHS 2015, bất kể tỷ lệ tổn thương cơ thể là bao nhiêu.
2. Quan điểm và đề xuất giải pháp
Từ các phân tích trên, tác giả xin đưa ra một số quan điểm và đề xuất nhằm tháo gỡ các vướng mắc nêu trên, đảm bảo tính thống nhất và nghiêm minh trong áp dụng pháp luật.
(1) Cần tuân thủ đúng các quy định tại khoản 2, khoản 4 và khoản 6 Điều 2 Luật QLVK 2024 cũng như Điều 9 Thông tư 75/2024/TT-BCA về danh mục và định nghĩa vũ khí quân dụng. Đặc biệt, đối với dao có tính sát thương cao, việc xác định tính chất (vũ khí quân dụng hay vũ khí thô sơ) phải dựa trên mục đích sử dụng, được làm rõ thông qua kết quả điều tra và kết luận giám định.
(2) Khi hành vi sử dụng vũ khí quân dụng vừa cấu thành tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” (Điều 304 BLHS 2015), vừa là tình tiết định khung của một tội phạm khác (như Điều 123 hoặc Điều 134 BLHS 2015), cần khởi tố đối tượng về cả hai tội danh. Điều này đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và phản ánh đúng mức độ nguy hiểm của hành vi.
(3) Việc trưng cầu giám định tư pháp về chủng loại, tính năng, nguồn gốc và mục đích sử dụng của vũ khí là bắt buộc trong mọi trường hợp để xác định vũ khí đó có thuộc danh mục “vũ khí quân dụng” theo Luật QLVK 2024 và Thông tư 75 hay không.
Kết luận
Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến hành vi sử dụng vũ khí quân dụng, đặc biệt trong bối cảnh áp dụng các quy định mới của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 và Thông tư số 75/2024/TT-BCA, phản ánh những thách thức trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi. Việc xác định chính xác khái niệm “vũ khí quân dụng”, xử lý thống nhất các trường hợp phạm nhiều tội và ban hành các hướng dẫn chi tiết sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017.
2. Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 (Luật số 42/2024/QH15).
3. Thông tư số 75/2024/TT-BCA ngày 15/11/2024 của Bộ Công an.
4. Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP ngày 14/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Công an Bạc Liêu thu giữ vũ khí, vật liệu nổ - Ảnh: Văn Đức.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chuyển đổi số trong nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án tại Tòa án
-
Chỉ xử lý hình sự đối với người gửi từ 02 thiết bị trở lên
-
Giới thiệu chuyên trang đặc biệt và Cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử 80 năm Tòa án nhân dân”
-
Bình Phước: Tìm nhân chứng là hành khách trên xe khách mang biển kiểm soát 47B–022.22
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
Bình luận