Nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Tác giả nêu lên những bất cập trong quy định của pháp luật về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi và những vẫn đề có liên quan, đồng thời đưa ra một số đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao tính tranh tụng trong giai đoạn này góp phần nâng cao chất lượng xét xử theo yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay.

Tranh tụng trong xét xử được Đảng xác định là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Tranh tụng có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án và đảm bảo xét xử dân chủ, khách quan, công bằng. Vì vậy, nguyên tắc tranh tụng được đảm bảo trong mọi giai đoạn của hoạt động tố tụng. Xét hỏi là một giai đoạn quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tại đây, nguyên tắc tranh tụng đã được thể hiện tuy nhiên thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn này còn có nhiều bất cập.

1.Quy định và thực tiễn

Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 BLTTHS như sau: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án…. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Về ngữ, tranh tụng là một từ Hán – Việt được hiểu là tranh luận trong tố tụng. Hiểu theo góc độ quy định pháp luật thì Tranh tụng được hiểu là một nguyên tắc trong tố tụng và nguyên tắc này áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng. Bản chất của tranh tụng là sự tranh luận qua lại giữa hai bên buộc tội và bào chữa để tìm ra sự thật của vụ án. Chính vì vậy, tranh tụng chỉ đặt ra giữa bên buộc tội gồm: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mà trực tiếp là Điều tra viên và Kiểm sát viên; bên bào chữa gồm bị can, bị cáo và/hoặc người bào chữa. Như vậy, tranh tụng sẽ xuất hiện và được bảo đảm khi có sự hiện diện của các bên và sự phân chia các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự ra thành ba chức năng chính là: buộc tội, bào chữa và xét xử. Theo đó, Tòa án đứng ra thực hiện nhiệm vụ là “trọng tài” xem xét quá trình tranh tụng của các bên và đưa ra Bản án, quyết định cuối cùng dựa trên sự thật khách quan của vụ án.

Xét xử là một giai đoạn rất quan trọng của quá trình tố tụng. Giai đoạn này là giai đoạn điều tra trực tiếp và liên tục tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng.

Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử, các bên tham gia tố tụng đều có quyền hỏi dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Trước khi tiến hành xét hỏi thì Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và tình bày ý kiến bổ sung (theo Điều 306 BLTTHS). Điểm mới của BLTTHS là đã quy định ý kiến bổ sung trong bản cáo trạng không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, điều này cũng thể hiện phần nào tính chất tranh tụng trong tố tụng hình sự, nó đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, bản cáo trạng của Kiểm sát viên là “lời buộc tội” của bên Viện kiểm sát đối với bị cáo, pháp luật chỉ quy định để cho kiểm sát viên công bố “lời buộc tội” của mình mà không quy định cho bị cáo thực hiện quyền nhận tội, nhận tội đến đâu hay chối tội và nêu lý do của bị cáo ngay sau khi kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, mà đi ngay vào việc xét hỏi khiến cho tính chất tranh tụng chưa thực sự được thể hiện rõ nét. Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được thể hiện rõ hơn thì cần thiết phải có quy định thủ tục Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo về việc có nhận tội hay không trước khi bước vào xét hỏi.

Trình tự xét hỏi được quy định tại Điều 307 BLTTHS, điểm mới của Điều luật là đã bổ sung trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa về điều hành việc xét hỏi, quyết định người hỏi trước hỏi sau theo trình tự hợp lý. Trên thực tiễn xét xử, quy định này được đánh giá là phù hợp với diễn biễn phiên tòa bởi nó đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được áp dụng ngay trong phần xét hỏi tại phiên tòa1. Tuy nhiên, quy định này lại làm tăng vai trò của Chủ tọa phiên tòa và làm giảm vai trò của Kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội tại phiên tòa. Trong khi việc xét hỏi thực chất là làm rõ tội danh trong vụ án mà Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử lại đảm nhận việc xét hỏi, xem xét vật chứng, công lời khai để “buộc tội” thì vô hình trung, Tòa án lại đứng về phía Viện kiểm sát – Cơ quan buộc tội. Điều này gây bất lợi cho bị cáo và làm cho phiên tranh tụng thiếu tính khách quan, công bằng. Quy định pháp luật nên xác định rõ rằng Chủ tọa phiên tòa sẽ tập trung vào nhiệm vụ dẫn dắt phiên tòa, Chủ tọa chỉ hỏi bổ sung và sau cùng nếu thấy cần thiết. Còn trách nhiệm xét hỏi chính phải thuộc về kiểm sát viên – người giữ vai trò buộc tội.

Đối với việc công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố của bị cáo tại phiên tòa được quy định tại Điều 308 BLTTHS. Quy định này cũng đã bổ sung một số trường hợp được công bố lời khai như khi người xét hỏi không nhớ lời khai của mình hay họ đề nghị công bố lời khai của mình; hoặc quy định không công bố tài liệu trong các trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, bí mật đời tư gia đình theo yêu cầu… Quy định này đảm bảo quyền của bị cáo tại phiên tòa, thể hiện tính tranh tụng trong xét xử. Tuy nhiên, điều luật vẫn chưa quy định trường hợp phải công bố lời khai khi bị cáo chối tội, không thừa nhận hành vi của mình trong quá trình điều tra cho đến tại phiên tòa và khi cần phải đối chất chứ không chỉ có công bố lời khai khi có lời khai mâu thuẫn. Bên cạnh đó, Điều luật quy định quyền công bố lời khai của Hội đồng xét xử là chưa đảm bảo tính khách quan của nguyên tắc tranh tụng bởi việc công bố lời khai của Hội đồng xét xử thể hiện việc “buộc tội” của Hội đồng xét xử đối với bị cáo.

Ngoài ra, trong thủ tục xét hỏi, bị cáo có quyền trực tiếp xét hỏi tức là bị cáo có quyền đặt câu hỏi trực tiếp với người tham gia tố tụng khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo (Điều 309, 310, 311 BLTTHS) nếu được Chủ tọa đồng ý. Tuy nhiên, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị phụ thuộc vào việc đề nghị của bị cáo có được chủ tọa phiên tòa đồng ý hay không. Để đảm bảo tính tranh tụng rõ nét hơn thì cần thiết phải quy định về việc xác định phạm vi hỏi của bị cáo và quyền ngắt câu hỏi không liên quan hoặc vòng vo.. khi bị cáo hỏi của Chủ tọa phiên tòa thay vì trao quyền được hỏi nhưng phải được Chủ tọa đồng ý như quy định của pháp luật hiện nay. Mặt khác, quy định của BLTTHS vẫn chưa quy định quyền đặt câu hỏi trực tiếp của những người tham gia tố tụng khác là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ nhằm đảm bảo phiên tòa xét xử diễn ra khách quan, công bằng theo đúng chủ trương của cải cách tư pháp.

Kết quả của tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận và quan trọng hơn nó góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, làm căn cứ cho Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết chính xác, hợp tình, hợp lý.

Theo tinh thần của Nghị quyết 49 và Nghị quyết 27 cùng với sự đổi mới về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của BLTTHS và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị, thực tiễn xét xử cho thấy, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau, cùng tranh luận xác định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người bào chữa và những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng bên cạnh đó vẫn còn những phiên tòa xét xử chưa đảm bảo được nguyên tắc tranh tụng, việc xét hỏi phần lớn là của Hội đồng xét xử, nhiều vụ án không có người bào chữa tham gia và bị cáo không có đủ năng lực để tự bào chữa cho mình dẫn đến việc xét hỏi của Kiểm sát viên chỉ để khẳng định lại bản cáo trạng và đưa ra lời luận tội theo hướng buộc tội bị cáo. Tình trạng “án tại hồ sơ” vẫn còn nhiều. Phần lớn những hạn chế này là do quy định pháp luật còn nhiều bất cập như đã nêu trên và còn nhiều nguyên nhân mang tính chủ quan khác như chất lượng thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, luật sư còn chưa đảm bảo.. những điều này khiến cho nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn này nói riêng và trong các giai đoạn tố tụng nói chung vẫn chưa thực sự được thể hiện rõ nét và đạt được hiệu quả theo yêu cầu của cải cách tư pháp và tinh thần của các Nghị quyết đã đề ra.

2. Một số đề xuất nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng

Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra một số đề xuất nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi của phiên tòa hình sự sơ thẩm đạt hiệu quả hơn.

Thứ nhất, bổ sung quyền được chối tội, nhận tội, nhận tội một phần của bị cáo sau khi nghe kiểm sát viên công bố bản cáo trạng hoặc khi kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung trong bản cáo trạng.

Thứ hai, nâng cao vai trò của kiểm sát viên trong xét hỏi và xác định rõ vai trò của Hội đồng xét xử, Chủ tọa phiên tòa trong khi thực hiện thủ tục xét hỏi là người định hướng việc xét hỏi và hỏi bổ sung nếu thấy cần thiết.

Thứ ba, trao quyền công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố cho Kiểm sát viên, bổ sung thêm các trường hợp công bố lời khai khi bị cáo chối tội, không thừa nhận hành vi của mình hoặc khi cần đối chất.

Thứ tư, trao quyền hỏi trực tiếp cho bị cáo và quyền đặt câu hỏi trực tiếp của những người tham gia tố tụng khác là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ.

Thứ năm, cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, luật sư mà cụ thể là ở khâu đào tạo ở các bậc, từ bậc đại học trong các khoa luật, trường đại học đào tạo luật đến các lớp đào tạo năng lực chuyên môn cũng như kỹ năng, đạo đức hành nghề.

3. Kết luận

Tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong việc thực hiện công bằng và dân chủ, tập trung xây dựng hoạt động tố tụng hướng đến việc xác định sự thật của vụ án, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong xét xử cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng đảm bảo tính thực tiễn và yêu cầu của cải cách tư pháp. Bài viết nhằm hiểu rõ hơn về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trên thực tiễn mong muốn được góp phần nhỏ trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay./.

 

TAND huyện Long Mỹ,Hậu Giang xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Nguyễn Thị Lượng

[1] Nguyễn Hòa Bình (2016), “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 320.

ĐINH THỊ NGỌC BÍCH (Tòa án quân sự Quân khu 4)