Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

Công tác xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với các phạm nhân hiện nay mặc dù quy định của pháp luật đã tương đối đầy đủ, đồng bộ nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những nhận thức áp dụng rất khác nhau về đối tượng áp dụng đối với phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội xảy ra trước 01/01/2018 có phải thỏa mãn về điều kiện “đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự” hay không? Sự thiếu thống nhất này đã gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho các phạm nhân hiện nay.

1. Quy định của pháp luật

Theo quy định tại Điều 58 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự không được quy định là một tiêu chí, điều kiện để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án lần đầu khi đã đủ điều kiện về thời gian chấp hành án tại trại và có nhiều tiến bộ, cụ thể: Khoản 1 Điều 58 BLHS quy định như sau: 1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Toà án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười hai năm đối với tù chung thân”.

Tuy nhiên, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì ngoài 02 tiêu chí được xác định để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu thì người bị kết án phạt tù phải (1), đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và (2), có nhiều tiến bộ thì người bị kết án phải thỏa mãn tiêu chí (3), đó là: “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015: 1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân”.

Đây là một bổ sung hoàn toàn mới, cần thiết góp phần thu hồi tài sản, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người bị kết án gây ra cho người bị thiệt hại.

2. Nhận thức áp dụng và một số vướng mắc

Việc vận dụng áp dụng thế nào về điều kiện “đã thực hiện một phần nghĩa vụ dân sự” theo Điều 63 BLHS năm 2015, cụ thể: Trước khi có Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP ngày 10/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC “Về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính” tại Mục 1 Phần I có hướng dẫn tình tiết “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được hiểu là:... Đối với trường hợp bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc tù chung thân là loại hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt tử hình, nên “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp, người bị kết án bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của phía bị hại (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”. Sau khi Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP có hiệu lực pháp luật kể từ 15/7/2024 thì “đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải được áp dụng theo Nghị quyết. Theo đó, Nghị quyết số 03 là sự pháp điển hóa tinh thần của Công văn số 64, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 03 thì: “c) Đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Người bị kết án bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của người được thi hành án, người đại diện hợp pháp của người được thi hành án (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Người bị kết án có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn hướng dẫn tại khoản 8 Điều 2 của Nghị quyết này được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác nhận thì mức bồi thường nghĩa vụ dân sự có thể thấp hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng Tòa án phải ghi rõ trong quyết định. Người bị kết án về tội tham nhũng, chức vụ thì phải bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự”.

Nghị quyết số 03 ban hành đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự nói chung và công tác xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù nói riêng. Tuy nhiên, từ thực tiễn công tác xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù chúng tôi thấy vẫn còn những bất cập và việc nhận thức áp dụng pháp luật còn rất khác nhau giữa các cơ quan trong việc hiểu áp dụng thế nào đối với phạm nhân bị xét xử trước thời điểm BLHS năm 2015 có hiệu lực kể từ 01/01/2018 thì vấn đề “đã thực hiện được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự” được áp dụng như thế nào lại rất khác nhau, gây khó khăn, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật. Cụ thể chúng tôi đưa ra ví dụ minh chứng:

Phạm nhân Trần Thị H bị kết án 20 năm tù (tính từ ngày tạm giữ 22/12/2017) về tội: “Tham ô tài sản”  theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 278 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo quyết định của bản án thì về nghĩa vụ dân sự buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bị hại 17 tỷ đồng; đã bồi thường 3.000.000.000 đồng; còn phải bồi thường 14.000.000.000 đồng. Phải thực hiện nghĩa vụ án phí dân sự 124.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí hình sự; Quá trình chấp hành án phạt tù phạm nhân Trần Thị H mặc dù đã rất cố gắng vận động gia đình thực hiện được một 1.000.000.000 đồng nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và thực hiện xong toàn bộ án phí hình sự và dân sự. Tính đến đợt xét giảm 22/12/2024 phạm nhân Nguyễn Văn A đã chấp hành được trên 1/3 mức án phạt (cụ thể đã chấp hành án phạt tù được 07 năm); có đủ năm xếp loại từ Khá trở lên, cụ thể 12 quý xếp loại cải tạo Khá (năm 2022, 2023, 2024 xếp loại cải tạo Khá). Trại đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu cho phạm nhân với mức 10 tháng.

Trong quá trình nghiên cứu, giải quyết thì vấn đề phạm nhân có đủ điều kiện để được chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu hay không? Hiện có 02 quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Phạm nhân Trần Thị H không đủ điều kiện để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu. Vì, mặc dù, phạm nhân H đã chấp hành được trên 1/3 mức án phạt tù; có nhiều tiến bộ, cụ thể đã đủ thời gian xếp loại từ Khá trở lên, cụ thể là 03 năm. Tuy nhiên trong quá trình chấp hành án việc thực hiện nghĩa vụ dân sự mới thực hiện xong được nghĩa vụ án phí dân sự và hình sự nhưng mới chỉ thực hiện được bồi thường ở mức 1/4 nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Do vậy, không thỏa mãn khoản 1 Điều 63 BLHS nên Tòa án không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân do không đủ điều kiện về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự;

Quan điểm thứ hai (đây cũng là quan điểm của tác giả) cho rằng: Phạm nhân Trần Thị H đủ điều kiện để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Vì, ngoài tiêu chí về điều kiện đã chấp hành án phạt từ được 1/3 mức án phạt; có đủ thời gian xếp loại từ Khá trở lên, cụ thể là 03 năm: 2022, 2023 và năm 2024 và đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự mặc dù ít hơn 1/2 nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên do phạm nhân H bị xét xử ở BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân phải áp dụng Điều 58 BLHS năm 1999 để áp dụng. Theo đó, không áp dụng tiêu chí “đã thực hiện được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự”. Vì Điều 58 BLHS năm 1999 không coi tiêu chí này là điều kiện cần, bắt buộc phạm phân phải đáp ứng. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 7 BLHS năm 2015 thì phạm nhân Trần Thị H hoàn toàn có đủ điều kiện để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

3. Kiến nghị hoàn thiện

Qua tình huống pháp lý trên, cho chúng ta thấy mặc dù pháp luật đã tương đối đồng bộ, hoàn thiện, đặc biệt sau khi Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03 tháo gỡ rất nhiều vướng mắc. Tuy nhiên việc hiểu và áp dụng tiêu chí “đã thực hiện được một phần hai nghĩa vụ dân sự” hiện vẫn còn có nhiều cách hiểu áp dụng rất khác nhau. Rất cần các cơ quan tư pháp ở Trung ương quan tâm tháo gỡ. Tháo gỡ ở đây không phải là sự sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thêm mà là sự thống nhất, nhận thức trong áp dụng. Theo chúng tôi đối với người bị kết án để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù lần đầu sẽ phải chia ra 02 trường hợp:

Một là, nếu khi xét xử mà người bị kết án bị kết án theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì khi người bị kết án đã chấp hành án phạt tù một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ sẽ được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà không cần tiêu chí “đã thực hiện được 1/2 nghĩa vụ dân sự”;

Hai là, nếu người bị kết án bị xét xử và kết án theo BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì khi người bị kết án đã chấp hành án phạt tù một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ sẽ được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cần phải thỏa mãn điều kiện (3), đó là: “đã thực hiện được 1/2 nghĩa vụ dân sự”, thì mới được xem xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu.

Việc, chia ra 02 trường hợp như trên là căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 7 BLHS năm 2015, cụ thể: “2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. Do, vấn đề điều kiện “đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự” là một tiêu chí mới hạn chế phạm vi áp dụng đối với giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu nên tiêu chí này về nguyên tắc sẽ không áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

Qua 02 quan điểm về việc có chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu cho phạm nhân Trần Thị H không? Theo quan điểm cá nhân của người nghiên cứu thì tiêu chí “đã thực hiện được một phần hai nghĩa vụ dân sự” không áp dụng đối với phạm nhân H vì phạm nhân phải được áp dụng theo Điều 58 BLHS chứ không áp dụng Điều 63 BLHS năm 2015 và do vậy cũng không áp dụng Nghị quyết số 03 đối với phạm nhân này.

Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị TANDTC sớm có văn bản giải đáp hoặc có hướng dẫn cụ thể đối với phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội xảy ra trước 01/01/2018 khi không thực hiện được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì có đáp ứng điều kiện cần và đủ để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không? Từ đó, tạo điều kiện thống nhất trong nhận thức áp dụng pháp luật trong điều kiện cần và đủ để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù giữa các cơ quan trong công tác xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hiện nay.

ThS. ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)

Phiên toà hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, Nam Định - Ảnh: Thu Hiền.