Phân định ranh giới và truy cứu trách nhiệm hình sự trong các vụ án có yếu tố chồng lấn giữa tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Bài viết phân tích các vướng mắc trong việc định tội danh đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả đồng thời xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Vấn đề này nảy sinh do sự khác biệt về đối tượng tác động (hữu hình và vô hình) giữa hai nhóm tội, dẫn đến tình trạng “cạnh tranh tội danh” trong thực tiễn.

1. Sự cần thiết của phân định ranh giới trong các vụ án chồng lấn “Hàng giả” và “Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”

Hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là vấn nạn nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và người tiêu dùng. Hàng giả ngày càng tinh vi, đặc biệt là qua thương mại điện tử, gây khó khăn cho công tác quản lý và thực thi pháp luật. Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 đã quy định tách bạch nhóm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” (Điều 192-195) và nhóm tội “Xâm phạm quyền SHTT”[1] (Điều 225-226), thể hiện chính sách hình sự nghiêm minh trong việc bảo vệ trật tự kinh tế, quyền lợi người tiêu dùng, quyền SHTT, phù hợp với cam kết quốc tế. Tuy nhiên, khi một hành vi thỏa mãn đồng thời cả hai tội, sự chồng lấn quy định dẫn đến “cạnh tranh tội danh” và tạo “vùng xám” trong truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực tiễn xét xử cho thấy sự lúng túng, thiếu thống nhất trong việc định tội danh, ảnh hưởng đến tính công bằng và hiệu quả răn đe.

2. Căn nguyên lý giải cho vướng mắc trong định tội danh: Sự khác biệt về đối tượng tác động (hữu hình và vô hình)

Để hiểu rõ sự phức tạp trong định tội danh, cần phân định bản chất pháp lý và khách thể bảo vệ của hai nhóm tội danh này, đặc biệt là sự khác biệt về đối tượng tác động. Đây chính là căn nguyên của sự chồng lấn và cạnh tranh, tạo nên thách thức trong việc xác định đúng tội danh.

2.1. Nhóm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả” (Điều 192, 193, 194, 195 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Nhóm tội danh này bảo vệ một khách thể pháp lý độc lập, đó là trật tự quản lý kinh tếquyền lợi người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Hành vi của tội phạm tác động trực tiếp lên một đối tượng hữu hình (tangible), đó là bản thân hàng hóa vật lý. Ví dụ: Một người làm giả thuốc chữa bệnh, sữa bột, hoặc thực phẩm chức năng. Hành vi này làm sai lệch về chất lượng, công dụng của sản phẩm, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng và gây rối loạn thị trường. Dù trên sản phẩm có thể không có nhãn hiệu, hoặc nhãn hiệu bị làm giả không được bảo hộ, hành vi này vẫn đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo nhóm tội hàng giả.

Tuy nhiên, cần lưu ý định nghĩa "hàng giả" đã có sự thay đổi quan trọng khi Nghị định 98/2020/NĐ-CP[2] đã loại bỏ "hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ" ra khỏi danh sách định nghĩa này. Sự thay đổi này củng cố nhận định rằng hành vi giả mạo SHTT không còn được coi là "hàng giả" theo tiêu chí của pháp luật hành chính, nhưng lại tạo ra sự không nhất quán giữa pháp luật hành chính và hình sự, gây khó khăn cho việc định tội thống nhất.

2.2. Nhóm tội “Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 225, 226 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Nhóm tội danh này lại bảo vệ một khách thể hoàn toàn khác, đó là quyền sở hữu trí tuệ, một loại tài sản vô hình. Tuy nhiên, hành vi của tội phạm không tác động trực tiếp lên khách thể vô hình này. Thay vào đó, nó tác động lên một đối tượng hữu hình, là sản phẩm vật lý hoặc các bản sao chứa quyền SHTT, để xâm hại khách thể vô hình đó. Ví dụ, một người sao chép bất hợp pháp đĩa phim, phần mềm máy tính, hoặc sản xuất sản phẩm có gắn nhãn hiệu nổi tiếng đã được bảo hộ như Louis Vuitton, Chanel, Nike. Dù sản phẩm vật lý có thể đảm bảo chất lượng, việc sử dụng trái phép nhãn hiệu trên sản phẩm hữu hình đó đã xâm phạm quyền của chủ sở hữu, gây thiệt hại về uy tín và danh tiếng.

2.2.1. Bản chất pháp lý của quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Quyền tác giả được bảo hộ bao gồm quyền nhân thân (quyền tinh thần) và quyền tài sản (quyền kinh tế) gắn liền với tác phẩm. Được bảo hộ độc lập với quyền tác giả và với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền liên quan) được bảo hộ cũng bao gồm quyền nhân thân (nhưng chỉ áp dụng đối với người biểu diễn) và quyền tài sản gắn liền với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chư­ơng trình được mã hóa.. Chủ thể quyền thụ hưởng quyền liên quan gồm người biểu diễn (diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công), nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, và tổ chức phát sóng[3].

Bản chất pháp lý của quyền tác giả và quyền liên quan là quyền độc quyền tự mình khai thác hoặc ngăn chặn người khác làm bản sao, phân phối tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình, cũng như độc quyền kiểm soát tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình bị công bố, cắt, ghép, trích dẫn, truyền đạt, biểu diễn hoặc biến đổi mà không có sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả[4].

Cần lưu ý rằng khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ trong Điều 225 BLHS 2015 không bao gồm bất kỳ quyền nhân thân nào thuộc quyền tác giả, hoặc quyền liên quan. Khách thể của tội phạm này có phạm vi rất hẹp, cụ thể chỉ bao gồm hai quyền tài sản là quyền sao chép và quyền phân phối đối với tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình. Đối tượng bị tác động trực tiếp bởi hành vi phạm tội trong Điều 225 là các thực thể vật chất cụ thể phản ánh quyền sao chép và quyền phân phối được bảo hộ.

Xâm phạm quyền sao chép được hiểu là hành vi sử dụng bất kỳ phương tiện nào để nhân bản toàn bộ hoặc một phần tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình mà không được phép. Trong khi đó, xâm phạm quyền phân phối thường được hiểu là hành vi bán, cho thuê hoặc chuyển giao quyền sở hữu đối với bản gốc hoặc bản sao của các đối tượng trên dưới dạng hữu hình[5].

Tuy nhiên, ngôn ngữ thể dấu hiệu “sao chép” ở Điều 225 BLHS 2015 hiện nay có nguy cơ bị hiểu quá rộng. Sở dĩ như vậy là vì Điều 213 Luật SHTT xác định có 3 loại hàng hoá giả mạo về SHTT gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, hàng hoá giả mạo chỉ dẫn địa lý và hàng hoá sao chép lậu, trong đó “sao chép lậu”[6] được giải thích là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan. Trong lúc đó, điểm a khoản 1 Điều 225 BLHS 2015 lại không tái sử dụng thuật ngữ “sao chép lậu” (copyright piracy) mà chỉ quy định “sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình” dẫn tới khái niệm “sao chép lậu” dễ bị hiểu nhầm sang khái niệm “sao chép” thông thường, có nghĩa là sao chép chỉ một phần hoặc toàn bộ cũng là “sao chép”. Hệ quả là, chỉ sao chép một phần nhỏ của tác phẩm (ví dụ 10 trang trong 100 trang), hoặc một đoạn ngắn của bản ghi hình (2 phút trong bản ghi dài 60 phút) cũng có thể bị coi là “sao chép” để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này tiềm ẩn nguy cơ hình sự hóa quá mức, đặc biệt khi hành vi chưa đạt đến ngưỡng nghiêm trọng cần thiết.

2.2.2. Bản chất pháp lý của quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là hai hình thức bảo hộ quyền SHCN bên cạnh nhiều hình thức bảo hộ quyền SHCN khác như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Nhãn hiệu là các dấu hiệu (gồm cả dấu hiệu âm thanh) dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Quyền đối với nhãn hiệu (trừ nhãn hiệu nổi tiếng) chỉ phát sinh dựa trên văn bằng bảo hộ do Cục SHTT cấp và có hiệu lực kể từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc quốc gia cụ thể. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu thỏa mãn cả 2 điều kiện: (1) sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực tương ứng; và (2) sản phẩm có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý quyết định. Quyền đối với chỉ dẫn địa lý phát sinh dựa trên văn bằng bảo hộ và có hiệu lực vô thời hạn[7].

Pháp luật hình sự không xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý ở dạng đơn thuần, cũng như quyền SHCN đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, việc phân định ranh giới giữa hành vi xâm phạm đơn thuần và hành vi giả mạo là ngưỡng bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Để xác định một hành vi có phải là giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý theo Điều 226 BLHS 2015 hay không, cần phải xác định nó có giả mạo theo Điều 213 Luật SHTT hay không. Nhìn chung, một hành vi được xem là giả mạo nếu thỏa mãn cả bốn yếu tố sau: (1) dấu hiệu nghi ngờ được sử dụng cho hàng hóa; (2) dấu hiệu nghi ngờ đó trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý; (3) nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý bị nghi ngờ giả mạo phải đang được bảo hộ; và (4) nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý bị nghi ngờ giả mạo phải đang được sử dụng gắn liền với chính loại hàng hóa bị giả mạo. Nếu một trong bốn yếu tố này không thỏa mãn thì vụ việc không có dấu hiệu hình sự theo Điều 226 BLHS 2015. Trong trường hợp này, kết luận giám định về hàng hoá giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý - yếu tố cấu thành tội phạm bắt buộc và quan trọng nhất  - đóng vai trò quyết định để xác lập chứng cứ chứng minh tội xâm phạm quyền SHCN theo Điều 226 BLHS 2015.

Hành vi giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý luôn được coi là xâm phạm quyền SHCN được bảo hộ, nhưng hành vi xâm phạm quyền SHCN chưa chắc đã bị xem là giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý. Điều này có nghĩa hành vi xâm phạm nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đơn thuần, dù hàng hoá vi phạm có giá trị hàng chục tỷ đồng, cũng không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ có thể bị xử lý bằng chế tài dân sự hoặc hành chính.

Như vậy, sự khác biệt cơ bản về đối tượng tác động (hữu hình của hàng giả và vô hình của quyền SHTT) chính là căn nguyên lý giải tại sao hai nhóm tội này là độc lập về bản chất khách thể được bảo vệ, mặc dù có sự chồng lấn về hành vi trong thực tiễn (tạo nên vùng giao thoa).

3. Thực trạng “Cạnh tranh quy phạm pháp luật” và vướng mắc trong phân định ranh giới truy cứu trách nhiệm hình sự hiện hành

Sự khác biệt về khách thể và sự chồng lấn về hành vi khách quan, cùng với việc ý thức chủ quan của tội phạm có thể xâm hại cả hai khách thể cùng lúc, đã tạo ra một tình trạng "cạnh tranh quy phạm pháp luật" trong thực tiễn tố tụng hình sự, gây ra khó khăn lớn trong việc phân định ranh giới truy cứu trách nhiệm hình sự.

3.1. Các biểu hiện của “Cạnh tranh tội danh” trong thực tiễn và những vụ án điển hình

Nhiều vụ án liên quan đến hàng hóa vừa giả mạo về chất lượng/nguồn gốc, vừa giả mạo về nhãn hiệu, khiến các cơ quan tố tụng lúng túng trong lựa chọn tội danh. Sự giao thoa giữa "hàng giả" và "xâm phạm SHTT" là nguyên nhân cốt lõi của sự cạnh tranh này. Hành vi sản xuất sản phẩm kém chất lượng nhưng lại gắn nhãn hiệu nổi tiếng giả mạo, hoặc sản xuất/phân phối bản sao lậu tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đặt ra câu hỏi về việc liệu cần xử lý theo Điều 192-195 hay Điều 225/226, hay cả hai.

Thực tiễn đã chứng minh những khó khăn trong việc định tội danh qua các vụ án điển hình:

- Vụ án Bút bi chữ A, thước kẻ chữ K: Bị cáo ban đầu bị truy tố theo tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192 BLHS) với khung hình phạt nặng do giá trị hàng giả lớn (trên 2,2 tỷ đồng). Tuy nhiên, tại phiên tòa, Viện kiểm sát đã thay đổi tội danh sang tội xâm phạm quyền SHCN (Điều 226 BLHS) với khung hình phạt nhẹ hơn nhiều. Lý do là kết luận giám định cho thấy sản phẩm không phải là hàng giả về chất lượng (thậm chí có mẫu đạt 105,9% so với hàng thật) [8] mà chỉ là giả mạo nhãn hiệu. Vụ án này minh chứng cho sự cần thiết của việc phân biệt rạch ròi giữa giả mạo chất lượng và giả mạo nhãn hiệu để định tội danh chính xác.

- Vụ án đồng hồ Rolex: Tòa án xử bị cáo buôn bán 3.037 chiếc đồng hồ có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu nổi tiếng là Rolex, Tissot, Longines về tội buôn bán hàng giả theo Điều 156 BLHS 1999. Tuy nhiên, kết luận giám định chỉ khẳng định toàn bộ số đồng hồ là giả mạo nhãn hiệu, không có kết luận về chất lượng [9]. Việc thiếu chứng cứ về chất lượng đã làm dấy lên lo ngại về việc định tội danh thiếu chính xác, có thể dẫn đến việc áp dụng hình phạt nặng hơn so với bản chất hành vi. Vụ án này là một minh chứng nữa về sự cần thiết của việc phân biệt ranh giới giữa giả mạo chất lượng và giả mạo nhãn hiệu.

- Vụ án website "phimmoi.net": Ngày 19/8/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án hình sự về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đối với các bộ phim trình chiếu trái phép trên website này.[10] Tuy nhiên, vụ án này gặp khó khăn trong việc thu thập chứng cứ và chứng minh hành vi phạm tội do phải xác định yếu tố định lượng (thu lời bất chính, thiệt hại cho chủ thể quyền). Một khó khăn lớn nữa còn xuất phát từ bản chất của hành vi phát trực tuyến (streaming) - vốn là truyền đạt tác phẩm đến công chúng - chứ không phải là hành vi sao chép hay phân phối - khách thể được bảo vệ bởi Điều 225 BLHS 2015.

3.2. Phân định Trùng luật và Phạm nhiều tội tư tưởng

Những vướng mắc trong việc định tội danh đối với các hành vi chồng lấn, đặc biệt là giữa tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192-195) và tội xâm phạm quyền SHTT (Điều 225-226), cần được giải quyết dựa trên lý luận hình sự về trùng luật và phạm nhiều tội tư tưởng.

Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Hoà[11], trùng luật là hiện tượng một hành vi phạm tội thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm (CTTP) nhưng không được coi là trường hợp phạm nhiều tội vì có sự tồn tại của mối quan hệ chung và riêng, đặc biệt và bình thường, thu hút và bị thu hút, mối quan hệ thay thế hoặc mối quan hệ chính phụ giữa các cặp CTTP. Theo đó, giáo sư Hoà cho rằng các cặp CTTP có quan hệ đặc biệt như trên thể hiện ở chỗ “khi một hành vi đã thoả mãn CTTP thứ nhất thì cũng sẽ thoả mãn CTTP còn lại nhưng CTTP thứ nhất đã phản ánh đúng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và do vậy người có hành vi phạm tội chỉ bị coi là phạm tội mà CTTP thứ nhất phản ánh”.

Phạm nhiều tội tư tưởng hay còn gọi là phạm nhiều tội thực để phân biệt với phạm nhiều tội ảo (trùng luật) như cách gọi của giáo sư Hoà. Phạm nhiều tội tư tưởng, còn được biết đến bằng nhiều tên gọi khác như “tổng hợp tội phạm trừu tượng” hoặc “tổng hợp tư tưởng”[12], là trường hợp một hành vi duy nhất lại đồng thời thỏa mãn CTTP của nhiều tội danh, nhưng mỗi tội danh lại xâm phạm một khách thể pháp lý độc lập hoàn toàn khác nhau.

Để lý giải tại sao việc sản xuất, buôn bán một sản phẩm vừa giả về chất lượng/nguồn gốc vừa giả mạo nhãn hiệu thuộc phạm trù phạm nhiều tội tư tưởng chứ không phải trùng luật, ta cần phân tích sâu hơn về bản chất của hành vi này.

Thứ nhất, bản chất của hành vi này mang tính chất đa khách thể ở chỗ hành vi này không đơn thuần là một động tác vật lý duy nhất. Nó là một hành vi đơn nhất phức hợp được thực hiện với hai mục đích khác nhau, xâm phạm hai khách thể độc lập:

- Mặt thứ nhất (Tội hàng giả): Hành vi làm giả về chất lượng, công dụng nhằm lừa dối người tiêu dùng. Hành vi này xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và sức khỏe người tiêu dùng, là khách thể của nhóm tội Hàng giả (Điều 192-195).

- Mặt thứ hai (Tội xâm phạm SHTT): Hành vi giả mạo nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của thương hiệu, gây nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm. Hành vi này xâm phạm đến quyền SHTT của chủ sở hữu nhãn hiệu, là khách thể của nhóm tội Xâm phạm quyền SHTT (Điều 225-226).

Thứ hai, mối quan hệ giữa CTTP của nhóm tội hàng giả (Điều 192-195) và tội xâm phạm quyền SHTT (Điều 225-226) không phải là mối quan hệ bao trùm, loại trừ hoặc thu hút. Hai nhóm tội danh này hoàn toàn độc lập với nhau. Tội Hàng giả không thể bao trùm tội Xâm phạm quyền SHTT vì nó bỏ qua khía cạnh xâm hại quyền độc quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Ngược lại, tội Xâm phạm quyền SHTT cũng không thể bao trùm tội Hàng giả vì nó bỏ qua khía cạnh xâm hại sức khỏe người tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế. Nói theo cách khác, rõ ràng thấy rằng không có CTTP nào trong các CTTP của 2 nhóm tội danh trên mà riêng nó có có thể phản ánh hết tính sai phạm (nguy hiểm) của hành vi vừa giả mạo về chất lượng vừa giả mạo nhãn hiệu. Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội danh là cần thiết để phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi. Việc truy tố theo cả hai tội danh không vi phạm nguyên tắc "một hành vi chỉ một tội" mà là áp dụng đúng nguyên tắc "phạm nhiều tội tư tưởng" cho một hành vi phạm tội phức tạp, đa khách thể.

4. Đề xuất giải pháp nhằm phân định ranh giới truy cứu trách nhiệm hình sự rõ ràng

Để giải quyết tình trạng cạnh tranh quy phạm pháp luật, bài viết đề xuất hai nhóm giải pháp:

4.1. Giải pháp 1: Xác lập cấu thành loại trừ thông qua sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015

Mối quan hệ giữa các Điều 192-195 và Điều 225-226 không thể được giải quyết bằng cách chuyển hóa thành tình tiết định khung tăng nặng, vì chúng là hai loại tội độc lập về bản chất và đối tượng tác động (hữu hình và vô hình). Do đó, việc sử dụng kỹ thuật cấu thành loại trừ là phù hợp hơn để giải quyết sự cạnh tranh quy phạm. Theo đó, tác giả kiến nghị bổ sung kỹ thuật loại trừ lồng nhau vào các khoản 1 thuộc các Điều 192-195. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 192 (khoản 1 các Điều 193-195 được thực hiện tương tự) có thể sửa đổi theo hướng bổ sung loại trừ lồng nhau như sau:

“Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả

1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194 và 195 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, trừ trường hợp hành vi vừa có đủ yếu tố cấu thành tội này vừa có đủ yếu tố cấu thành theo quy định tại Điều 225 hoặc Điều 226 của Bộ luật này, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội quy định tại điều này và tội quy định tại các Điều 225, 226 và hình phạt được tổng hợp theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này:”

4.2. Giải pháp 2: Hoàn thiện hướng dẫn áp dụng pháp luật hiện hành và phân định các tình huống giao thoa, chồng lấn

Nếu chưa thể sửa BLHS 2015 thì có thể thực hiện Giải pháp 2 là ban hành văn bản hướng dẫn từ các cơ quan có thẩm quyền. Hướng dẫn này cần chỉ rõ các tình huống giao thoa, chồng lấn và nguyên tắc truy cứu TNHS cụ thể, dựa trên bản chất khách thể và đối tượng tác động:

- Tình huống 1: Chỉ giả mạo chất lượng/nguồn gốc (không giả mạo SHTT): Hành vi này chỉ xâm hại khách thể của nhóm tội "Hàng giả" (Điều 192-195) thông qua đối tượng tác động hữu hình (sản phẩm vật lý). Truy cứu TNHS: Áp dụng Điều 192, 193, 194, 195 BLHS 2015 tuỳ theo loại hàng hoá.

- Tình huống 2: Chỉ giả mạo nhãn hiệu/chỉ dẫn địa lý (không kèm theo giả mạo chất lượng): Hành vi này chỉ xâm hại khách thể của nhóm tội "Xâm phạm SHTT" (Điều 225 hoặc Điều 226). Truy cứu TNHS: Áp dụng Điều 225 hoặc Điều 226 BLHS 2015.

- Tình huống 3: Giả mạo cả chất lượng VÀ giả mạo nhãn hiệu/chỉ dẫn địa lý: Đây là tình huống chồng lấn rõ rệt nhất, nơi ý thức chủ quan của tội phạm có thể xâm hại cả hai khách thể độc lập. Truy cứu TNHS: Cần xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cả hai tội (Điều 192-195 và Điều 226) nếu hành vi đủ dấu hiệu cấu thành của cả hai.

- Tình huống 4: Giả mạo nhãn hiệu/chỉ dẫn địa lý (mà quyền chưa được bảo hộ) và không giả mạo chất lượng: Trong tình huống này, không có quyền SHTT được bảo hộ để truy cứu TNHS theo Điều 226/225, và cũng không có yếu tố giả mạo chất lượng để truy cứu theo Điều 192-195. Hành vi này không thể xử lý hình sự theo các điều luật về hàng giả hoặc SHTT.

- Tình huống 5: Các hành vi xâm phạm quyền SHTT khác và không có yếu tố giả về chất lượng: Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn đơn thuần thì không truy cứu TNHS, chỉ có hành vi giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý mới có dấu hiệu hình sự. Pháp luật hình sự cũng không bảo vệ các quyền SHCN khác như kiểu dáng, sáng chế, bí mật kinh doanh, tên thương mại.

5. Kết luận và kiến nghị

Giải pháp 1 được đề xuất như một định hướng ưu tiên để xử lý đồng thời cả hai tội hoặc nhiều tội danh nếu hành vi đơn nhất phức hợp xâm phạm đồng thời nhiều khách thể độc lập. Đây không chỉ là giải pháp phản ánh đúng bản chất nguy hiểm của hành vi, mà còn mở ra hướng tiếp cận mới phù hợp với học thuyết hình sự hiện đại, đặc biệt là phạm nhiều tội tư tưởng. Trong khi đó, để giải quyết vướng mắc định tội danh nhanh chóng trên thực tiễn trong trường hợp chưa thể đưa Giải pháp 1 vào BLHS 2015 sửa đổi - vốn là một quy trình phức tạp và tốn thời gian thì Giải pháp 2 là giải pháp dự phòng hợp lý có thể áp dụng ngay.

 

Luật sư Lê Quang Vinh (Công ty sở hữu trí tuệ Bross & Cộng sự)

[1] BLHS 2015 không có tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ có “Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan” (Điều 225) và “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” (Điều 226). Để thuận tiện, tác giả tạm gọi chung 2 tội này là tội xâm phạm quyền SHTT.

[2] Điều 3.7 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung theo Nghị định 17/2022/NĐ-CP và Nghị định 24/2025/NĐ-CP đã loại bỏ "hàng hóa giả mạo sở hữu trí tuệ" ra khỏi danh sách 8 loại “hàng giả” ở Nghị định số 185/2013/NĐ-CP (hết hiệu lực).

[3] Xem Khoản 1 Điều 6, Khoản 2 Điều 4, Điều 14, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Khoản 3 Điều 4, Khoản 2 Điều 6, Điều 29, Điều 30 và Điều 31 Luật SHTT.

[4] Lê Quang Vinh (2024), Kỹ năng chuyên sâu trong xét xử vụ án hình sự về quyền sở hữu trí tuệ (thuộc nhiệm vụ “Đào tạo, nâng cao năng lực xét xử các vụ án về sở hữu trí tuệ cho cán bộ của hệ thống tư pháp” theo Quyết định số 1984/QD-BKHCN ngày 27/7/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ).

[5] Xem Điểm c, d Khoản 1 Điều 20, Điểm b, d Khoản 3 Điều 29, Điểm a, b Khoản 1 Điều 30, Điểm b, d Khoản 1 Điều 31 Luật SHTT.

[6] Theo chuẩn mực quốc tế, chỉ “sao chép lậu” (copyright piracy) mới bị coi là tội phạm – thường được hiểu là nhân bản trái phép với (số) lượng đáng kể và có quy mô thương mại. Chú thích 14 của Điều 61 Hiệp định TRIPS và tài liệu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO/ACE/4/3, Part 3, mục 3.1) đều nhấn mạnh yếu tố sao chép phần cơ bản (substantial copying) mới cấu thành vi phạm hình sự. Do đó, Việt Nam nên có hướng dẫn chính thức để làm rõ rằng việc sao chép một phần nhỏ, không đáng kể, dù có yếu tố thương mại, không đương nhiên cấu thành tội phạm theo Điều 225 BLHS 2015. Việc này nhằm tránh nguy cơ hình sự hóa quá mức và bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự.

[7] Khoản 16, 22 Điều 4, Điểm a Khoản 3 Điều 6, Khoản 6, 7 Điều 93, Điều 123, Khoản 1 Điều 125, Điều 129 Luật SHTT.

[8] Lê Quang Vinh (2022), Vụ án hình sự thú vị: Hàng giả đạt 105,9% chất lượng so với hàng thật nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Nguồn: http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Vu-an-hinh-su-thu-vi:-Hang-gia-dat-1059-chat-luong-so-voi-hang-that-nhung-van-phai-chiu-trach-nhiem-hinh-su-ve-toi-xam-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep, truy cập ngày 31/8/2025

[9] Mai Thị Thanh Nhung (2022), sđd

[10] VnEconomy (2021), Khởi tố hình sự 3 đối tượng vi phạm bản quyền liên quan website Phimmoi.net. Nguồn: https://vneconomy.vn/khoi-to-hinh-su-3-doi-tuong-vi-pham-ban-quyen-lien-quan-website-phimmoi-net.htm, truy cập ngày 31/8/2025

[11] Nguyễn Ngọc Hoà (2018), Trường hợp phạm nhiều tội và trùng luật - Từ lí thuyết đến sự thể hiện trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 5/2018

[12] Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015 gọi phạm nhiều tội do một hành vi là “tổng hợp tội phạm trừu tượng” (tr. 356); Giáo trình luật hình sư Việt Nam (phần chung), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001 của Đại học Huế gọi phạm nhiều tội do một hành vi là “phạm nhiều tội tư tưởng hoặc tổng hợp tư tưởng” và gọi phạm nhiều tội do nhiều hành vi là “phạm nhiều tội thực tế hoặc tổng hợp thực tế”.

Ảnh minh hoạ Lực lượng chức năng tổ chức khám xét kho chứa hàng - Nguồn: TCĐT Thương hiệu và Công luận.