Quốc hội tiếp tục kế thừa, đổi mới và phát triển hoạt động lập hiến trong giai đoạn hiện nay

Đất nước đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Việc tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị nền tảng trong lịch sử hoạt động lập hiến là cơ sở chính trị - pháp lý và thực tiễn vững chắc giúp Quốc hội đồng hành cùng dân tộc, viết tiếp những trang sử vẻ vang, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Lập hiến là chức năng quan trọng của Quốc hội. Trải qua lịch sử 80 năm xây dựng, đổi mới và phát triển, Quốc hội Việt Nam cùng các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân đã không ngừng nỗ lực xây dựng, ban hành các bản Hiến pháp, tạo cơ sở chính trị - pháp lý thúc đẩy sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Thông qua mỗi bản Hiến pháp, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về tư tưởng lập hiến, về nội dung Hiến pháp, về quy trình, thủ tục lập hiến, về triển khai thi hành Hiến pháp, về bảo vệ Hiến pháp,… luôn được nhất quán khẳng định, kế thừa, đổi mới và phát triển phù hợp với chế độ chính trị và điều kiện lịch sử cụ thể.

1. Sự hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay

Tư tưởng lập hiến là những giá trị cốt lõi về việc xây dựng một bản văn Hiến pháp - văn kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội và chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của nhà nước và chế độ.

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội cùng các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân đã xây dựng, ban hành 05 bản Hiến pháp, đánh dấu những bước phát triển trong chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Trong suốt quá trình đó, tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về một nhà nước độc lập, dân chủ, pháp quyền; nhân dân là phạm trù trung tâm, “dân là gốc”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”; về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; về giới hạn quyền lực nhà nước trong Hiến pháp và pháp luật, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng luôn được kế thừa, vận dụng sáng tạo, đổi mới và phát triển ở một tầm cao mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong từng thời kỳ phát triển.

Theo đó, ở mỗi giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào bối cảnh và tình hình đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước phát triển về tư duy, nhận thức và chủ trương chỉ đạo trong hoạt động lập hiến. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, xác lập và củng cố nền độc lập, tự do mới giành được sau Cách mạng tháng Tám và khẳng định ý chí của nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”[1]. Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp thứ hai của nước ta ra đời sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954, miền Bắc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân chủ nhân dân. Hiến pháp năm 1959 đã phản ánh nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và tạo cơ sở pháp lý cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thực hiện thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1980 được ban hành trong hoàn cảnh đất nước giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời đương đầu với khó khăn mới ở cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam. Do vậy, tinh thần cách mạng vẫn là tiền đề cho việc xây dựng Hiến pháp của nước Việt Nam thống nhất. Bên cạnh đó, trong thời gian này, Đảng ta định hướng xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Vì vậy, Hiến pháp năm 1980 được xác định là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”, phản ánh một cách trọn vẹn quan điểm, chủ trương của Đảng cũng như nhận thức của xã hội thời kỳ đó về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dựa trên mô hình nền kinh tế kế hoạch tập trung[2] và mô hình nhà nước chuyên chính vô sản. Bước sang giai đoạn mới, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện đậm nét sự thay đổi trong tư duy, nhận thức thời cuộc của Đảng ta bằng việc khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (được Đại hội VII của Đảng thông qua); hiến định mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước theo tinh thần Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đã được khởi xướng và từng bước thực hiện. Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Hiến pháp năm 2013 được ban hành thể chế hóa sâu sắc và toàn diện hơn Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan. Do vậy, Hiến pháp năm 2013 được đánh giá là bản Hiến pháp phản ánh chân thực thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế.    

Trong suốt chặng đường 80 năm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và cả hệ thống chính trị đã đồng hành cùng dân tộc xây dựng 05 bản Hiến pháp. Mỗi bản Hiến pháp đều có sự kế thừa, phát triển, thể hiện ý Đảng, lòng dân, đánh dấu chặng đường xây dựng và trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam. Trong suốt chặng đường ấy, tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều được nhất quán khẳng định và thể hiện sinh động trong quá trình xây dựng các bản Hiến pháp.

2. Kế thừa, đổi mới và phát triển về quy trình lập hiến

Theo nghĩa chung nhất, quy trình lập hiến là trình tự, thủ tục mà các chủ thể có quyền lập hiến phải tuân theo trong quá trình ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Qua thực tiễn hoạt động lập hiến ở nước ta, có tác giả cho rằng Quy trình lập hiến là trình tự, thủ tục mà những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện hoạt động lập hiến phải tuân theo trong quá trình ban hành mới hoặc sửa đổi Hiến pháp nhằm chuyển hoá ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thành những quy phạm hiến định và thể hiện chúng dưới hình thức một bản văn Hiến pháp”[3].

 Khác với quy trình lập pháp, quy trình lập hiến thường chặt chẽ hơn và phải do Hiến pháp quy định. Bởi Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của mỗi quốc gia; quyền lập hiến thuộc về nhân dân; Hiến pháp có tính ổn định cao, do vậy, Hiến pháp không thể được sửa đổi một cách đơn phương từ phía Nhà nước. Quy trình lập hiến ở các quốc gia có sự khác nhau nhưng đều có điểm chung cơ bản như: (1) Đưa ra sáng quyền lập hiến (giai đoạn xác lập sự cần thiết xây dựng hoặc sửa đổi Hiến pháp); (2) Soạn thảo Hiến pháp (soạn thảo dự thảo Hiến pháp hay dự thảo sửa đổi Hiến pháp); (3) Công bố dự thảo Hiến pháp rộng rãi để các tầng lớp nhân dân góp ý; (4) Thảo luận và thông qua Hiến pháp (tại Quốc hội, hoặc trưng cầu ý dân khi dự thảo được Quốc hội thông qua).

Trên thế giới, mô hình phổ quát về việc sửa đổi, ban hành các bản Hiến pháp thường được thực hiện bởi: Hội nghị lập hiến soạn thảo và thông qua Hiến pháp([4]); do Quốc hội lập hiến[5] hoặc Quốc hội lập hiến, lập pháp[6] thông qua nhưng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt; do trưng cầu ý dân[7]; hoặc do người đứng đầu nhà nước ban hành (thường là vua)[8].

Thông thường, việc sửa đổi, ban hành Hiến pháp thường gắn với những thay đổi rất lớn trong đời sống xã hội. Ở nước ta, quá trình ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp đều gắn với thực tiễn bối cảnh lịch sử, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua từng giai đoạn. Trong quá trình đó, quy trình, thủ tục về xây dựng Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp luôn được thể hiện nhất quán dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Quốc hội quyết định với 2/3 số đại biểu Quốc hội yêu cầu/biểu quyết tán thành; Quốc hội bầu ra Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp; Nhân dân tham gia vào quá trình sửa đổi Hiến pháp. Việc hiến định về sửa đổi Hiến pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã phản ánh một quy trình lập hiến dân chủ, do Quốc hội quyết định và thu hút sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quá trình xây dựng và thông qua Hiến pháp.

Nhìn lại lịch sử lập hiến nước nhà có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện bước tiến lớn trong việc đổi mới, hoàn thiện quy trình lập hiến. Từ chỗ chưa xác định rõ về chủ thể sáng quyền lập hiến (cơ quan nào có quyền kiến nghị sửa đổi Hiến pháp), chưa xác định rõ quy trình, thủ tục sửa đổi Hiến pháp, tên gọi của cơ quan soạn thảo dự thảo sửa đổi Hiến pháp…, trong các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã hoàn thiện các vấn đề này. Hiến pháp năm 2013 đã hiến định chủ thể có quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp là Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội; hiến định chủ thể quyết định việc sửa đổi Hiến pháp là “ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”; Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp cũng như quyết định thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hiến định việc soạn thảo, lấy ý kiến toàn dân về dự thảo Hiến pháp, xem xét, thông qua dự thảo Hiến pháp[9]; hiến định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp và công bố Hiến pháp.

Tuy nhiên, là một quy trình đặc biệt, độc lập với quy trình lập pháp thông thường và chỉ được quy định trong Hiến pháp, hiện nay quy trình lập hiến ở nước ta chưa được cụ thể hóa trong bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào. Đây là một trong những vấn đề đặt ra, cần được Quốc hội tiếp tục xây dựng, hoàn thiện trong thời gian tới.

3. Công tác triển khai thi hành Hiến pháp được quán triệt, bảo đảm thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước

Triển khai thi hành Hiến pháp là việc đưa các quy định cụ thể của Hiến pháp đi vào đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước thông qua việc cụ thể hóa các chế định, nguyên tắc trong Hiến pháp thành các bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản quy định chi tiết. Trong quá trình đó, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không ngừng kế thừa, đổi mới và phát triển hoạt động triển khai thi hành Hiến pháp.

Nhìn lại lịch sử, tùy điều kiện cụ thể của đất nước, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác đã chọn lựa cách thức thi hành Hiến pháp chủ động, linh hoạt. Trong giai đoạn 1946 - 1975, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vẫn còn tiếp diễn đã làm gián đoạn việc tổ chức, triển khai thực hiện Hiến pháp. Trong hoàn cảnh đó, Quốc hội đã ban hành được một số luật quan trọng[10]. Sau khi thống nhất đất nước, việc triển khai thi hành Hiến pháp trong giai đoạn sau được thực hiện có hiệu quả hơn. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, hoạt động tổ chức thi hành Hiến pháp đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Là bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ đổi mới, từ sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, Quốc hội đã đẩy mạnh công tác lập pháp để cụ thể hóa Hiến pháp và thể chế hóa các chủ trương mới của Đảng, ban hành trăm đạo luật để thúc đẩy tiến trình đổi mới đất nước, đặt nền tảng cho sự hình thành nền kinh tế thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế[11],…

Đặc biệt trong giai đoạn thi hành Hiến pháp năm 2013, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong toàn hệ thống chính trị đã cùng vào cuộc với nhiều biện pháp quyết liệt bảo đảm tổ chức thi hành Hiến pháp, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân nội dung của Hiến pháp, bảo đảm để Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Riêng Quốc hội khóa XV, thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị[12], Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15[13] và Kế hoạch số 734/KH-UBTVQH15[14] xác định 156 nhiệm vụ lập pháp cần thực hiện trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Tính đến hết tháng 6/2024, đã có 131/156 (83,97%) nhiệm vụ hoàn thành việc nghiên cứu, rà soát và nghiên cứu, xây dựng mới. Sau hơn 11 năm kể từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua đến nay (29/6/2024), đã có 179 đạo luật được Quốc hội ban hành, phủ khắp các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Từ đó, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, đối ngoại và hội nhập quốc tế;...

Bên cạnh đó, tư duy lập pháp và kỹ thuật lập pháp ngày một tiến bộ đã góp phần quan trọng giúp cho các chế định của Hiến pháp được đi sâu vào đời sống chính trị, kinh tế - xã hội. Ví dụ như các nguyên tắc về hạn chế quyền con người, quyền công dân đã được quán triệt đầy đủ, chỉ bị hạn chế trong các trường hợp đã được Hiến pháp quy định và chỉ bằng luật. Cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng được quy định cụ thể hơn trong các đạo luật thông qua việc trực tiếp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân khác có liên quan.

Có thể nói rằng, là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Quốc hội cùng với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc cụ thể hóa các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp thành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh từng ngành, từng lĩnh vực riêng biệt, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, tinh thần của Hiến pháp càng được thẩm thấu trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, đi sâu vào đời sống của người dân, hình thành ý thức thượng tôn Hiến pháp, văn hóa pháp luật, đem lại đời sống chính trị dân chủ, pháp quyền trong Nhân dân và toàn xã hội.

4. Tư tưởng bảo vệ Hiến pháp được kế thừa, đổi mới và phát triển ngày càng toàn diện hơn

Bảo vệ Hiến pháp (bảo hiến) được hiểu là việc các chủ thể có thẩm quyền và nhân dân thực hiện các biện pháp phòng ngừa, xem xét, đánh giá, kết luận về tính hợp hiến của các hành vi, văn bản do các cơ quan nhà nước thực hiện, ban hành và tiến hành các biện pháp xử lý theo quy định nếu các văn bản, hành vi đó vi phạm Hiến pháp nhằm bảo đảm sự tôn trọng, tuân thủ Hiến pháp, ngăn ngừa các hành vi vi hiến[15]. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tư tưởng về bảo hiến đã xuất hiện từ Hiến pháp năm 1946 và dần được hoàn thiện, thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Trong các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959 và năm 1980, nếu như thiết chế bảo hiến chỉ được thiết kế chung chung, gián tiếp thông qua việc hiến định: Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì đến Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, tư tưởng bảo vệ Hiến pháp đã được thể hiện cụ thể, sâu sắc hơn thông qua việc hiến định các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp gồm: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân. Trên cơ sở nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[16], Hiến pháp đã giao nhiệm vụ bảo hiến cho nhiều cơ quan trong bộ máy Nhà nước và nhân dân. Mặc dù vậy, Quốc hội vẫn là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ Hiến pháp khi được Hiến pháp trao thẩm quyền giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước, đóng vai trò là cơ quan trung tâm của hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Hiệu quả của hoạt động bảo vệ Hiến pháp được đánh giá thông qua các hoạt động lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.

5. Quốc hội tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị của nền tảng của hoạt động lập hiến Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp cả về an ninh, chính trị và kinh tế, những thời cơ, thuận lợi đan xen những khó khăn, thách thức. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển với những đột phá công nghệ ở nhiều lĩnh vực đã chi phối sâu sắc tiến trình phát triển của nhân loại và tác động trực tiếp tới mọi quốc gia. Với vị trí, vai trò là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội tiếp tục kế thừa những giá trị lịch sử lập hiến Việt Nam, kiên định, kiên trì tổ chức thực hiện tốt các quy định của Hiến pháp năm 2013, đẩy mạnh công tác bảo vệ Hiến pháp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nâng cao nhận thức về Hiến pháp, huy động nhiều hơn nữa nguồn lực từ cả hệ thống chính trị và Nhân dân để thi hành và bảo vệ Hiến pháp.

Để tiếp tục kiên định triển khai thực hiện tốt các quy định của Hiến pháp năm 2013 trong thời gian tới một cách có hiệu quả cũng như chuẩn bị đầy đủ các yếu tố để có thể phản ứng kịp thời những thay đổi của tình hình trong nước và thế giới có tính bước ngoặt, cần thiết phải có các giải pháp để kế thừa, phát huy, đổi mới, hoàn thiện hơn trên mọi phương diện của hoạt động lập hiến.

Thứ nhất, cần nhất quán và kiên định tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về quyền lập hiến và quan niệm về Hiến pháp.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Hiến pháp và dân chủ là hai yếu tố không tách rời nhau. “Hiến pháp dân chủ” phải là một bản Hiến pháp có nội dung và cách thức ban hành dân chủ. Ðồng thời là phương tiện để cho nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Ngược lại, dân chủ là điều kiện cần và đủ cho một bản “Hiến pháp dân chủ” ra đời, tồn tại và phát huy giá trị. Trong bản Hiến pháp đó, sức mạnh của “thần linh pháp quyền” phải được thể hiện rõ nét trong từng chế định. Do đó, việc hoàn thiện nhận thức phổ quát về quan điểm lập hiến này sẽ tạo nền tảng vững chắc để nước ta thực hiện tốt định hướng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra.

Thứ hai, tiếp tục kế thừa, đổi mới và hoàn thiện hơn nữa các quy định về quy trình, thủ tục lập hiến dưới sự lãnh đạo của Đảng; tiếp tục phát huy dân chủ trong hoạt động lập hiến, tạo điều kiện để mọi cơ quan, tổ chức và công dân tham gia tích cực vào hoạt động lập hiến.

Thứ ba, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong việc đưa các quy định của Hiến pháp đi vào thực tiễn đời sống của nhân dân. “Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân. Nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật”[17].

Thứ tư, kế thừa, đổi mới và phát triển cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, phát huy tính chủ động, tích cực của các cơ quan Nhà nước và Nhân dân trong bảo vệ Hiến pháp.

Nhìn lại chặng đường gần 80 năm qua, có thể khẳng định rằng dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và xuyên suốt của Đảng, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, Quốc hội luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực, cố gắng cao nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó. Mỗi bản Hiến pháp ra đời đều minh chứng cho sự kế thừa, đổi mới và phát triển của Quốc hội trong hoạt động lập hiến, tạo lập nền tảng chính trị - pháp lý góp phần rất quan trọng đưa đất nước vững bước vượt qua khó khăn, tạo ra những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đóng góp lớn vào những thành tựu vô cùng ý nghĩa của công cuộc giành độc lập, xây dựng và đổi mới đất nước.

TS. Nguyễn Văn Hiển - TS. Phan Văn Ngọc - TS. Nguyễn Thị Dung (Viện Nghiên cứu lập pháp)

[1] Trích Lời nói đầu Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946.

[2] không chấp nhận sự tồn tại của các quan hệ thị trường và quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

[3] Nguyễn Quang Minh, Bàn về lập hiến, https:// quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=50, truy cập ngày 05/9/2024.

[4] Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa kỳ năm 1787 do Hội nghị lập hiến soạn thảo và thông qua.

[5] Quốc hội lập hiến được thành lập để soạn thảo Hiến pháp, sau đó dự thảo Hiến pháp được đưa ra để trưng cầu ý dân để nhân dân quyết định cuối cùng (thông qua). Ví dụ Quốc hội lập hiến được thành lập ở Italia để thông qua Hiến pháp năm 1947, ở Pháp (1946), Bồ Đào Nha và Hi Lạp (1975), Bungari (1990), Rumani (1991). Có trường hợp, sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội lập hiến không giải thể mà chuyển thành Quốc hội lập pháp như ở Hy Lạp (1975) hoặc Quốc hội của Việt Nam (1946).

[6] Quốc hội thực hiện cả hai nhiệm vụ lập hiến và lập pháp. Đây là mô hình Quốc hội được áp dụng phổ biến ở các nước XHCN trước đây, của Việt Nam, Trung Quốc hiện nay. Cơ sở lý luận của mô hình này xuất phát từ nguyên tắc tập quyền XHCN, nguyên tắc về vị trí tối cao và toàn quyền của cơ quan dân cử trong bộ máy nhà nước XHCN. Thực tế cho thấy, các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đều quy định: Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

[7] Hiến pháp của Pháp (năm 1946, 1958), Italia (1947), Cu Ba (1976), Tây Ban Nha (1978), Philipin (1987), Thái Lan (1997, 2007),… được thông qua bằng trưng cầu ý dân.

[8] Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, TS. Uông Chu Lưu (chủ biên) (2014) - Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.79.

[9] Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã quy định tỷ lệ thông qua nghiêm ngặt, cao hơn tỷ lệ thông qua các luật khác. Theo đó, phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc quy định tỷ lệ thông qua như vậy đã thể hiện rõ được tầm quan trọng, vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật của nước ta.

[10] Như Luật Cải cách ruộng đất năm 1953; Luật về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân năm 1957; Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội năm 1959; Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.

[11] Như Luật Đất đai năm 1993; Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996; Luật Doanh nghiệp năm 1999 và năm 2005. Cùng với đó, nhiều đạo luật rường cột cũng đã được ban hành như Bộ luật Dân sự năm 1995 và năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;…

[12] Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

[13] Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

[14] Kế hoạch số 734/KH-UBTVQH15 ngày 22/01/2024 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15.

[15] Đảng Đoàn Quốc hội - Báo cáo chuyên đề “Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”. H.2021.

[16] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[17] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV dành nhiều thời gian cho công tác lập pháp, xây dựng pháp luật - Ảnh: Phạm Thắng.