
Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích những điểm mới trong quy định về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Từ đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này.
Trong những năm gần đây, tình trạng săn bắt, vận chuyển, buôn bán, tiêu thụ trái phép các loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm đang diễn ra với tính chất ngày càng tinh vi, phức tạp và có xu hướng gia tăng cả về quy mô và mức độ nguy hiểm. Hành vi xâm hại các loài động vật này không chỉ gây tổn thất nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học, làm mất cân bằng hệ sinh thái mà còn ảnh hưởng đến an ninh môi trường, sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của quốc gia. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt là việc bảo vệ các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm. Hệ thống pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã ngày càng được hoàn thiện, trong đó có thể kể đến Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Lâm nghiệp năm 2017, các nghị định hướng dẫn thi hành và đặc biệt là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025) với việc quy định cụ thể về “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” tại Điều 244. Đây là bước tiến quan trọng trong việc hình sự hóa hành vi xâm hại trái phép các loài động vật đặc biệt cần được bảo vệ, thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các công ước quốc tế như CITES (Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp). Việc nghiên cứu, phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm là cần thiết góp phần hoàn thiện pháp luật, đảm bảo áp dụng pháp luật được thống nhất, hiệu quả.
1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình trạng buôn bán trái phép các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm ở Việt Nam ngày càng diễn biến phức tạp, gắn với những đường dây xuyên quốc gia, lợi dụng kẽ hở pháp luật và khoảng trống trong thực tiễn xử lý. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã có những điểm sửa đổi quan trọng tại Điều 244 về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa, răn đe và bảo vệ tính bền vững của hệ sinh thái. So với quy định trước đây, có thể khái quát một số điểm mới nổi bật sau:
Thứ nhất, về đối tượng tác động của tội phạm, phạm vi xử lý hình sự đã được mở rộng. Nếu như BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chủ yếu tập trung vào hành vi liên quan đến các cá thể động vật nguy cấp, quý, hiếm, thì Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã bổ sung thêm sản phẩm của chúng (như ngà voi, sừng tê giác, mật gấu, da hổ, xương hổ…). Quy định này khắc phục triệt để thực trạng trong thời gian qua nhiều vụ án gặp khó khăn do đối tượng vi phạm không nắm giữ “cá thể sống” mà chỉ tàng trữ, vận chuyển hoặc buôn bán sản phẩm từ chúng. Điểm mới này góp phần khép kín hành lang pháp lý, bảo đảm bất kỳ hành vi nào liên quan đến loài nguy cấp, quý, hiếm đều có thể bị xử lý hình sự.
Thứ hai, về căn cứ xác định loài nguy cấp, quý, hiếm, Bộ luật Hình sự 2025 dẫn chiếu trực tiếp đến các văn bản dưới luật mới nhất, trong đó có Thông tư 27/2025/TT-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thông tư này công bố và cập nhật thường xuyên danh mục các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc diện quản lý, đồng thời điều chỉnh theo Công ước CITES và các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Như vậy, so với giai đoạn trước, quy định mới đã tạo sự linh hoạt, phù hợp với biến động của thực tiễn, tránh tình trạng “danh mục pháp lý lạc hậu” so với tình hình thực tế.
Thứ ba, về khung hình phạt, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã tăng mức chế tài, đặc biệt đối với những trường hợp vi phạm có tính chất, mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Cụ thể, nếu hành vi liên quan đến khối lượng lớn sản phẩm nguy cấp như ngà voi từ 90kg trở lên hoặc sừng tê giác từ 9kg trở lên, thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10 đến 15 tỷ đồng, hoặc bị phạt tù với khung rất nặng, đồng thời có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như cấm hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động. Trước đây, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chỉ quy định khung phạt tiền từ 500 triệu đến 2 tỷ đồng hoặc phạt tù 1–5 năm cho các hành vi tương tự. Sự thay đổi này phản ánh quan điểm siết chặt quản lý và răn đe mạnh mẽ hơn đối với loại tội phạm có tính chất lợi nhuận cao, gây hậu quả lớn cho môi trường sinh thái.
Thứ tư, về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) tiếp tục kế thừa nhưng đồng thời nâng cao mức xử lý. Nếu như trước đây, mức phạt tiền tối đa cho pháp nhân là 5 tỷ đồng, thì nay mức cao nhất có thể lên tới 15 tỷ đồng, kèm theo hình phạt bổ sung như đình chỉ hoạt động trong thời hạn từ 6 tháng đến 3 năm. Điểm mới này có ý nghĩa đặc biệt, bởi thực tiễn nhiều đường dây buôn bán động vật quý hiếm thường được tổ chức dưới dạng pháp nhân hợp pháp (công ty xuất nhập khẩu, công ty du lịch, cơ sở kinh doanh), do đó việc nâng cao chế tài với pháp nhân sẽ tạo sức răn đe mạnh mẽ và khắc phục triệt để kẽ hở “trốn tránh trách nhiệm” qua danh nghĩa doanh nghiệp.
Thứ năm, về chính sách hình sự, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã bổ sung nguyên tắc xử lý theo hướng nghiêm trị đối với hành vi có tổ chức, xuyên quốc gia, đồng thời có thể xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp người phạm tội chủ động khai báo, hợp tác với cơ quan chức năng trong việc triệt phá đường dây. Quy định này thể hiện sự tiến bộ, hài hòa giữa răn đe và khuyến khích tố giác, phù hợp với xu hướng của pháp luật hình sự quốc tế.
Thứ sáu, quy định mới còn nhấn mạnh đến sự phối hợp giữa xử lý hình sự và các biện pháp quản lý hành chính, dân sự. Trong nhiều trường hợp, thay vì chỉ xử phạt hành chính hoặc chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự, nay cơ quan chức năng có thể kết hợp cả hai, bảo đảm tính toàn diện. Ví dụ, một pháp nhân thương mại vừa có thể bị xử lý hình sự, vừa phải chịu bồi thường dân sự do thiệt hại môi trường gây ra.
Như vậy, có thể khẳng định rằng những điểm mới của Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm mang tính bước ngoặt, khắc phục các hạn chế trước đây, đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường. Đây cũng là minh chứng cho sự nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta: bảo vệ môi trường sinh thái là bảo vệ sự sống, là nền tảng phát triển bền vững của quốc gia.
2. Một số hạn chế, tồn tại trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) (BLHS) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.
Thứ nhất, về chủ thể và đối tượng bị xâm hại – cách tiếp cận chưa toàn diện:
Điều 244 BLHS quy định tội “vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” chủ yếu xuất phát từ yêu cầu bảo tồn các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, chế định này lại tiếp cận chủ yếu từ khía cạnh xâm phạm đến chính sách quản lý nhà nước, chưa thực sự làm nổi bật yếu tố xâm hại đến môi trường sinh thái, đa dạng sinh học – vốn là giá trị cốt lõi mà công ước quốc tế và pháp luật bảo vệ động vật hoang dã hiện đại đều đặt lên hàng đầu.
Theo khoản 1 Điều 244 BLHS: "Người nào săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ… thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…"
Tuy nhiên, việc luật chỉ liệt kê theo danh mục động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ được ban hành theo quy định hành chính (hiện nay là Nghị định 06/2019/NĐ-CP và sửa đổi bởi Nghị định 84/2021/NĐ-CP) lại dẫn đến sự phụ thuộc quá mức vào văn bản dưới luật, tiềm ẩn nguy cơ thiếu ổn định, thay đổi theo chính sách ngắn hạn. Điều này làm ảnh hưởng đến tính dự báo và minh bạch của luật hình sự.
Thứ hai, về hành vi khách quan – chưa đầy đủ và thiếu bao quát: Khoản 1 Điều 244 liệt kê các hành vi khách quan như: săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép… Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến động vật hoang dã, còn rất nhiều hành vi nguy hiểm khác không được đề cập hoặc chưa được xử lý hình sự, ví dụ:
- Hành vi trưng bày, quảng cáo, rao bán qua mạng xã hội các sản phẩm từ động vật quý hiếm;
- Hành vi chế tác, chế biến sản phẩm mỹ nghệ, trang sức từ ngà voi, sừng tê giác;
- Hành vi tàng trữ động vật nguy cấp, quý, hiếm nhưng không có mục đích mua bán.
Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ việc phát hiện hành vi vận chuyển các loài thuộc Phụ lục II CITES từ châu Phi về Việt Nam như tê tê, ngà voi, hổ Đông Dương… nhưng vì không được liệt kê trong danh mục trong nước, các đối tượng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc truy tố theo tội danh khác không tương xứng.
Tổ chức TRAFFIC và UNODC đã nhiều lần kiến nghị Việt Nam cần nội luật hóa đầy đủ các quy định của CITES vào hệ thống pháp luật hình sự để đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực thực thi[1].
Thứ ba, về xử lý vật chứng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP thì “Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau:
a) Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành để trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
b) Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
c) Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ vào hướng dẫn nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) còn nhiều nơi áp dụng không thống nhất trong việc xử lý vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm. Có cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tiêu hủy, có cơ quan tiến hành tố tụng giao cho cơ quan kiểm lâm, có cơ quan tiến hành tố tụng giao cho Bảo tàng; có Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy, có Tòa án tuyên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
Cần thiết có văn bản hướng dẫn cụ thể về xử lý vật chứng là động vật hoang dã còn sống và vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã để thống nhất xử lý.
Thứ tư, về cơ quan giám định: Khoản 4 Điều 31 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quy định: Cơ quan khoa học CITES Việt Nam là cơ quan giám định mẫu vật CITES. Ngày 17/6/2020, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 2249/QĐ-BNN- TCLN về việc chỉ định cơ quan khoa học CITES Việt Nam, tại Điều 1 của Quyết định này chỉ định 04 tổ chức là Cơ quan Khoa học CITES Việt Nam gồm: 1. Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, lĩnh vực Động vật và Thuỷ sinh vật; 2. Viện Nghiên cứu hải sản, lĩnh vực thuỷ sinh vật; 3. Viện Khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam, lĩnh vực thực vật; 4. Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, lĩnh vực thực vật. Theo đó hiện nay cả nước chỉ có 01 cơ quan có chức năng giám định động vật gồm: Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Do đó, việc đưa mẫu vật chứng đi giám định gặp nhiều khó khăn như khâu bảo quản, phương tiện, vận chuyển, thời gian, chi phí giám định.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, bổ sung và làm rõ các hành vi cấu thành tội phạm: Cần sửa đổi, bổ sung Điều 244 để liệt kê toàn diện hơn các hành vi nguy hiểm đến động vật nguy cấp, quý, hiếm, không chỉ dừng lại ở săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán… mà cần mở rộng thêm:
Hành vi tàng trữ trái phép;
Hành vi chế tác, tiêu dùng, trưng bày sản phẩm từ động vật (ngà voi, sừng tê giác...);
Hành vi quảng cáo, môi giới, rao bán trực tuyến các loài, bộ phận hoặc sản phẩm từ loài quý hiếm.
Cách tiếp cận này phù hợp với khuyến nghị của UNODC và các tổ chức quốc tế về phòng chống tội phạm môi trường: tội phạm về động vật hoang dã không chỉ giới hạn ở mua bán mà bao gồm toàn bộ chuỗi hành vi từ săn bắt đến tiêu thụ.
Hai là, nội luật hóa đầy đủ cam kết quốc tế (CITES): Cần có sự thống nhất giữa pháp luật hình sự trong nước với Công ước CITES bằng việc:
Bổ sung quy định tại Điều 244 theo hướng: hành vi xâm phạm đến loài thuộc Phụ lục I, II, III của CITES cũng được xem là hành vi phạm tội, bất kể có nằm trong danh mục do Chính phủ ban hành hay không.
Đồng thời, cần đưa danh mục loài động vật quý hiếm về hình thức phụ lục luật, hạn chế phụ thuộc vào các văn bản dưới luật dễ thay đổi, nhằm bảo đảm tính ổn định và minh bạch.
Ba là, cụ thể hóa yếu tố định lượng và định tính
Để tránh tình trạng tùy nghi trong áp dụng pháp luật, cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 244 bởi Tòa án nhân dân tối cao hoặc liên ngành, trong đó làm rõ:
Thế nào là “trái phép”? Việc này sẽ giúp việc xử lý thống nhất hơn trên toàn quốc và tránh bỏ lọt tội phạm hoặc xử sai loại tội.
Bốn là, đối với động vật hoang dã và nguy cấp, quý, hiếm còn sống, khi thu giữ, cần phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng, đặc biệt là các trường hợp động vật hoang dã và nguy cấp, quý, hiếm đã bị thương do săn bắt và cơ quan chức năng phải phối hợp chăm sóc, bảo quản vật chứng và xử lý theo quy ngay với cơ quan kiếm lâm sở tại để tổ chức định của pháp luật.
Đối với động vật hoang dã và nguy cấp, quý, hiếm đã chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã và nguy cấp, và nguy cấp, quý, hiếm cần phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng, trong trường hợp không có nơi cất giữ đảm bảo thì cơ quan bắt giữ lập biên bản, phối hợp ngay với cơ quan kiểm lâm sở tại để xử lý theo quy định của pháp luật.
Năm là, đối với cơ quan giám định.
Đề nghị cơ quan chức năng xem xét, nghiên cứu sớm ban hành văn bản quy định về giám định tư pháp theo hướng: mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập cơ quan giám định và có giám định viên nhằm giám định bảo vệ động vật hoang dã và nguy cấp, quý, hiếm.
[1] UNODC & TRAFFIC (2022), Strengthening Legal Frameworks to Combat Wildlife Crime in Vietnam
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chia tài sản khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn – một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
Bình luận