Quy định về chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu theo Bộ luật Dân sự năm 2015 – một số vấn đề cần lưu ý và đề xuất, kiến nghị

Bài viết tập trung phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLDS năm 2015) về chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu; trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quy định về quyền chiếm hữu trong BLDS năm 2005, nhóm tác giả làm rõ một số tồn tại, hạn chế và đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

1. Quy định về chiếm hữu, bảo vệ việc chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng pháp luật

Chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu là một nội dung mới được ghi nhận lần đầu trong BLDS năm 2015. Quy định này cần được hiểu đầy đủ, chính xác để tránh việc nhận thức chưa đúng đắn khi so sánh với quyền chiếm hữu.

Chương XII, Phần thứ hai quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản của BLDS năm 2015 quy định về chiếm hữu, gồm 07 Điều luật, từ Điều 179 đến Điều 185. Đây là nội dung hoàn toàn khác với quy định về quyền chiếm hữu quy định tại tiểu mục 1, mục 1 Chương XIII, Phần thứ hai BLDS năm 2015. Các nội dung về chiếm hữu, bảo vệ việc chiếm hữu được quy định cụ thể như sau:

Điều 179 BLDS năm 2015 quy định khái niệm chiếm hữu như sau:

“1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.

2. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.

Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231,232, 233 và 236 của Bộ luật này.”.

Như vậy, theo quy định thì Điều luật ghi nhận chiếm hữu là tình trạng thực tế, tồn tại độc lập so với quyền sở hữu và được bảo vệ với quy định riêng về bảo vệ việc chiếm hữu tại Điều 185 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Chương XII BLDS năm 2015 về chiếm hữu còn ghi nhận các nội dung như:

Chiếm hữu ngay tình: là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. (Điều 180 BLDS năm 2015).

- Chiếm hữu không ngay tình: là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. (Điều 181 BLDS năm 2015).

- Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.

Việc chiếm hữu không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 BLDS năm 2015. (Điều 182 BLDS năm 2015).

- Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.

Việc chiếm hữu không công khai không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 BLDS năm 2015 (Điều 183 BLDS năm 2015). 

- Suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu: là việc người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh.

Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.

Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định BLDS năm 2015 và luật khác có liên quan.

- Bảo vệ việc chiếm hữu: là trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.

Như vậy, BLDS năm 2015 đã dành một chương riêng để quy định về chiếm hữu, tách bạch với quy định về quyền chiếm hữu. Trước đây, trong BLDS năm 2005 chỉ ghi nhận quyền chiếm hữu với vai trò là một quyền trong quyền tài sản[1], theo đó, quyền chiếm hữu là một quyền năng của chủ sở hữu bên cạnh quyền sử dụng và quyền định đoạt. BLDS năm 2015 quy định về chiếm hữu với ý nghĩa là ghi nhận  tình trạng thực tế, tồn tại độc lập so với quyền sở hữu và được bảo vệ với quy định riêng về bảo vệ việc chiếm hữu (Điều 185 BLDS năm 2015).

Có thể thấy, chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu tài sản là một trong những quy định mới có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của BLDS năm 2015. Theo đó, “với sự bổ sung chế định chiếm hữu, BLDS năm 2015 đã xác định đúng bản chất của chiếm hữu - một tình trạng pháp lý thực tế của nguời đang kiềm soát tài sản. Đồng thời, việc bồ sung chiếm hữu đã đáp ứng đòi hởi khách quan từ thực tế cuộc sống, duy trì trật tự xã hội”[2].

Với việc bô sung quy định về chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu thành quy định riêng như trên, bên cạnh những ý nghĩa về lý luận và thực tiễn thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện để bảo đảm việc áp dụng pháp luật hiệu quả, hiệu lực trong thực tiễn.

Bài viết này, nhóm tác giả tập phân tích, chỉ rõ điểm tồn tại, hạn chế trong quy định về bảo vệ việc chiếm hữu; từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về nội dung này.

2. Một số tồn tại, hạn chế và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện

Điều 105 BLDS năm 2015 quy định, tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”; khoản 1 Điều 179 BLDS năm 2015 quy định chiếm hữu là “việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”. Theo nghĩa này, chiếm hữu có thể được hiểu là “một tình trạng thực tế, tồn tại độc lập, bên ngoài so với quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”[3]. Theo đó, sự nắm giữ, chi phối ở đây được hiểu là những hoạt động cụ thể của chủ thế đối với tài sản, diễn ra bình thường trong đời sống, thể hiện ở việc cầm nắm, giữ gìn, trông coi, quản lý, kiểm soát thực tế đối với các động sản; hoặc cư ngụ, sinh sống trong ngôi nhà...[4]. Điều luật quy định, người chiếm hữu nắm giữ, chi phối tài sản “như chủ thể có quyền đối với tài sản” được hiểu là họ có thể có quyền hoặc không có quyền đối với tài sản đó.

Thực tế, việc chiếm hữu tài sản cũng có thể bị xâm hại, do đó BLDS năm 2015 quy định về bảo vệ việc chiếm hữu tại Điều 185 BLDS năm 2015, với những quy định về quyền của người chiếm hữu khi việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm; về chủ thể có quyền bảo vệ việc chiếm hữu và các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu.

Về mặt ngữ nghĩa, bảo vệ được hiểu là sự ngăn cản nhằm chống lại mọi sự xâm phạm để giữ đuợc nguyên vẹn. Vì vậy, bảo vệ việc chiếm hữu có thể hiểu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản sử dụng các biện pháp chống lại việc người khác xâm phạm việc chiếm hữu; tuy nhiên, cần lưu ý là các biện pháp được sử dụng phải hợp pháp, do BLDS năm 2015 quy định.

Tuy nhiên, nghiên cứu quy định về bảo vệ việc chiếm hữu cho thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể:

Thứ nhất, về kỹ thuật lập pháp

 Điều 185 BLDS năm 2015 quy định, trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.

Như vậy, cách xây dựng Điều luật này có sự trùng lắp, theo đó, người chiếm hữu có quyền tự mình bảo vệ việc chiếm hữu khi bị xâm hại và có quyền yêu cầu chủ thể là Tòa án, cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền bảo vệ việc chiếm hữu của mình. Tuy nhiên, các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu cũng chỉ bao gồm: yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại. Như vậy, với cách thể hiện như Điều 185 BLDS năm 2015 cho thấy có sự trùng lặp không cần thiết, chưa thực sự bảo đảm tính logic, xúc tích trong kỹ thuật lập pháp; sự lặp lại này là không cần thiết. Do đó, chúng tôi kiến nghị, trong thời gian tới, khi sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 185 theo hướng quy định ngắn gọn, xúc tích, không trùng lặp. Chúng tôi đề xuất nội dung Điều 185 BLDS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền tự mình bảo vệ việc chiếm hữu hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ việc chiếm hữu bằng một các phương thức: buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.”.

Thứ hai, về các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu

Điều 185 BLDS năm 2015 quy định 04 phương thức bảo vệ việc chiếm hữu gồm:

- Buộc người đó chấm dứt hành vi;

- Buộc người có hành vi xâm phạm khôi phục tình trạng ban đầu;

- Buộc người có hành vi xâm phạm trả lại tài sản

- Buộc người có hành vi xâm phạm bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, so sánh với quy định về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản thì có sự khác nhau về các biện pháp bảo vệ. Cụ thể:

Khoản 2 Điều 164 BLDS năm 2015 quy định về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản như sau:

“2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”.

Theo quy định tại tiểu mục 1, mục 1 Chương XIII, Phần thứ hai BLDS năm 2015 thì nội dung quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu. Theo đó, các phương thức bảo vệ quyền sở hữu chỉ bao gồm:

- Buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản;

- Buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu;

- Yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Như vậy, các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu có thêm quy định “khôi phục tình trạng ban đầu”, nghĩa là trả lại trạng thái như ban đầu của tài sản cho người chiếm hữu. Như vậy, vấn đề là nhà làm luật đặt ra quy định bảo vệ quyền của người chiếm hữu (bao gồm cả trường hợp mới là sự suy đoán ngay tình là có quyền đối với tài sản) còn đầy đủ, hiệu lực hơn việc bảo vệ quyền cho chủ sở hữu đích thực đối với tài sản (chủ thể có quyền chiếm hữu tài sản). Việc quy định các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu đa dạng hơn phương thức bảo vệ quyền sở hữu tài sản là chưa thực sự phù hợp khi đánh giá ở góc độ chủ thể quyền, với quyền chiếm hữu tài sản là chủ sở hữu đích thực của tài sản, được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội[5], còn việc chiếm hữu thì chủ thể bao gồm cả trường hợp suy đoán ngay tình,… Như vậy, việc khác phiệt trong quy định về phương thức bảo vệ như phân tích nêu trên là chưa bảo đảm tính phù hợp. Do đó, chúng tôi kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 185 BLDS năm 2015, nội dung về các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu cần phù hợp với phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu để bảo đảm tính thống nhất tổng thể trong BLDS và cũng để bảo đảm phù hợp về bản chất pháp lý, đặc trưng của chủ thể quyền.

Thứ ba, quy định về thực hiện các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu tài.

Như trên đã phân tích, Điều 185 BLDS năm 2015 quy định các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu, tuy nhiên, BLDS năm 2015 không có các quy định cụ thể về thực hiện các phương thức này mà chỉ ghi nhận các phương thức mang tính chất chung chung chưa cự thể, rõ ràng, dẫn đến thực tế gặp một số khó khăn, vướng mắc.

Nghiên cứu quy định về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu thì thấy, BLDS năm 2015 quy định khá cụ thể, rõ ràng việc thực hiện các phương thức này như: quyền đòi lại tài sản (từ Điều 166 – Điều 168); quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu (Điều 169) và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 170).

So sánh các quy định về bảo vệ việc chiếm hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu thì thấy, về cơ bản các phương thức bảo vệ là giống nhau, vậy việc thực hiện các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu có giống như việc thực hiện các phương thức bảo vệ quyền sở hữu hay không cần sớm được quy định một cách cụ thể, thống nhất.

Để giải quyết vướng mắc này, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc thực hiện quy định về bảo vệ việc chiếm hữu. Theo đó, chúng tôi đề xuất nội dung hướng dẫn cần theo hướng xác định việc thực hiện các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu được thực hiện giống phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu quy định từ Điều 166 – Điều 170 BLDS năm 2015. Nội dung hướng dẫn này cũng phù hợp với đề xuất nêu trên về xác định lại các phương thức bảo vệ việc chiếm hữu thống nhất với các phương thức bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS năm 2015.

Kết luận

Có thể thấy, việc bổ sung quy định về chiếm hữu là cần thiết và phù hợp, BLDS năm 2015 đã quy định đúng về bản chất của chiếm hữu và bảo vệ việc chiếm hữu. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng, quy định về bảo vệ việc chiếm hữu vẫn bộc lộ một số điểm hạn chế nhất định. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện là đòi hỏi tất yếu, khách quan.  

 

[1] Điều 164 BLDS năm 2005.

[2] Phùng Trung Tập - Kiều Thị Thùy Linh, Tài sản và vật quyền, Nxb. Công an nhân dân, năm 2021, tr. 45.

[3] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức, tr.104.

[4] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (Tlđd).

[5] Điều 186 BLDS năm 2015.

NGUYỄN DIỆU LINH (Thẩm phán bậc 1 Tòa án nhân dân khu vực 8 – Hải Phòng), PHẠM HOÀNG THANH (Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 8 – Hải Phòng).

Ảnh: nguồn Internet

Tài liệu Tham khảo

1. Bộ luật Dân sự năm 2005;

2. Bộ luật Dân sự năm 2015;

3. Phùng Trung Tập - Kiều Thị Thùy Linh, Tài sản và vật quyền, Nxb. Công an nhân dân, năm 2021;

4. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb. Hồng Đức