Thẩm quyền ban hành quyết định thi hành án đối với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại nhưng bỏ trốn khỏi nơi cư trú - Một số vướng mắc và kiến nghị

Hiện nay, việc xác định thẩm quyền ban hành quyết định thi hành án hình sự đối với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại nhưng bỏ trốn khỏi nơi cư trú vẫn còn nhiều vướng mắc, thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Xuất phát từ các quy định của pháp luật chưa được cụ thể, chặt chẽ, các văn bản hướng dẫn còn có những quy định chưa rõ ràng, chưa được hiểu một cách thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến việc chậm ban hành quyết định thi hành án và quyết định truy nã bị án bỏ trốn.

1. Tình huống pháp lý

Người bị kết án Hồ Khánh L (cư trú tại ấp Q, xã A, tỉnh V) bị Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G tuyên phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, L được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã A, tỉnh V.

Sau khi bản án có hiệu lực, Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G đã ủy thác cho Tòa án nhân dân khu vực N, tỉnh V ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, qua hai lần ủy thác, Tòa án nhân dân khu vực N, tỉnh V đều trả hồ sơ vì xác minh thấy bị án không còn cư trú tại địa phương từ năm 2022 và bị án không tự nguyện chấp hành án.

Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G sau đó đã ban hành quyết định thi hành án, yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an khu vực T, tỉnh G tổ chức thi hành và đề nghị Công an tỉnh V ra quyết định truy nã. Tuy nhiên, Cơ quan thi hành án hình sự Công an khu vực T, tỉnh G trả lời không có thẩm quyền thi hành án vì bị án không cư trú tại địa bàn khu vực T, tỉnh G. Công an tỉnh V cũng từ chối truy nã vì hồ sơ đề nghị truy nã chưa đủ căn cứ, chưa có cơ quan nào thi hành quyết định thi hành án.

Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G sau đó tiếp tục ban hành quyết định thi hành án, giao cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an khu vực N, tỉnh V thi hành, nhưng Cơ quan thi hành án hình sự Công an khu vực N, tỉnh V cũng trả lại hồ sơ vì cho rằng quyết định này không đúng thẩm quyền theo Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS). Công an khu vực N, tỉnh V cho rằng Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G phải ủy thác cho Tòa án nhân dân khu vực N, tỉnh V ra quyết định thi hành án còn Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G không có thẩm quyền giao cho Công an khu vực N, tỉnh V thi hành quyết định thi hành án đối với bị án đang được tại ngoại.

Tình trạng trên kéo dài nhiều tháng, làm chậm trễ quá trình tổ chức thi hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật.

2. Quy định pháp luật và hướng dẫn có liên quan

- Điều 364 BLTTHS quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án như sau:

“1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.

3. …. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án đang tại ngoại ra quyết định truy nã”.

- Công văn số 156/TANDTC-PC ngày 13/9/2021 của Tòa án nhân dân tối cao (Công văn 156) có quy định:

Khi nhận được quyết định ủy thác thi hành án, Tòa án được ủy thác phải tiến hành xác minh thi hành án.

Trường hợp Tòa án được ủy thác không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án ủy thác đã biết. Trong trường hợp này, Tòa án đã ủy thác ra quyết định thi hành án và căn cứ khoản 3 Điều 364 BLTTHS yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.

- Khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012 (Thông tư liên tịch số 13/2012) hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự quy định:

“1. Người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, khi có quyết định thi hành án nhưng bỏ trốn thì Tòa án đã ra quyết định thi hành án có văn bản yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù được tại ngoại ra quyết định truy nã...”.

- Áp dụng tinh thần được hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.1 mục 2 phần I của Nghị quyết 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như sau:

“d) Trường hợp Tòa án được ủy thác đã ra quyết định thi hành án và được cơ quan Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại địa bàn hành chính khác thì trả lại hồ sơ ủy thác thi hành án cho Tòa án đã ủy thác và giải quyết như sau:

d.1) Trường hợp Tòa án được ủy thác biết được địa chỉ của người bị kết án ở địa bàn hành chính khác thì thông báo cho Tòa án đã ủy thác để Tòa án đã uỷ thác thực hiện việc ủy thác cho Tòa án nơi người bị kết án đang cư trú;

d.2) Trường hợp Tòa án được ủy thác không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ủy thác biết để Tòa án đã ủy thác thực hiện việc ra quyết định thi hành án và yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định truy nã người bị kết án như trường hợp được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I này”.

3. Phân tích và vướng mắc thực tiễn

Qua tình huống nêu trên, có thể thấy phát sinh vướng mắc thực tiễn về thẩm quyền, cụ thể như sau:

Tòa án nhân dân khu vực N, tỉnh V (nơi người bị kết án đang tại ngoại) đã được Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G ủy thác ban hành quyết định thi hành án hình sự nhưng không thể ban hành quyết định thi hành án vì xác minh thấy người bị kết án không còn cư trú tại địa phương, phải trả hồ sơ cho Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G ban hành quyết định thi hành án (Theo hướng dẫn tại Công văn số 156).

Trong trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G có thẩm quyền ra quyết định thi hành án, nhưng không thể giao cho Cơ quan thi hành án hình sự khu vực T, tỉnh G thi hành vì người bị kết án không cư trú tại khu vực T, tỉnh G.

Trong khi Cơ quan thi hành án hình sự khu vực T, tỉnh G không có thẩm quyền thi hành án thì Cơ quan thi hành án hình sự nơi người bị kết án cư trú (khu vực N, tỉnh V) lại từ chối thi hành vì cho rằng quyết định thi hành án do Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G ban hành nhưng giao cho Cơ quan thi hành án hình sự khu vực N, tỉnh V thi hành là không đúng thẩm quyền; Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G phải ủy thác cho Tòa án nhân dân khu vực N, tỉnh V ra quyết định thi hành án. Tòa án nhân dân khu vực T, tỉnh G không có thẩm quyền giao cho Công an khu vực N, tỉnh V thi hành quyết định thi hành án đối với người bị kết án đang được tại ngoại.

Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là Tòa án nào có thẩm quyền ban hành Quyết định thi hành án đối với người bị kết án Hồ Khánh L. Và Cơ quan thi hành án hình sự nào có thẩm quyền thi hành Quyết định thi hành án đối với người bị kết án Hồ Khánh L?

4. Kiến nghị hoàn thiện

Từ tình huống thực tiễn nêu trên, để khắc phục những vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại nhưng bỏ trốn khỏi nơi cư trú, tác giả xin đề xuất một số kiến nghị sau:

Thứ nhất, cần hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong trường hợp bị án tại ngoại bỏ trốn. Hiện nay, tại BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành khác chỉ quy định chung về thẩm quyền ra quyết định thi hành án và truy nã đối với người bị kết án tại ngoại bỏ trốn, nhưng chưa quy định rõ:

- Trong trường hợp không thể ủy thác thi hành án vì nơi cư trú người bị kết án không xác định, thì Tòa án nào là cơ quan cuối cùng có trách nhiệm ra quyết định thi hành án?

- Có thể xem nơi cư trú trước khi bỏ trốn là căn cứ xác định thẩm quyền thi hành án và yêu cầu truy nã hay không?

Do đó, cần có văn bản hướng dẫn, xác định rõ thẩm quyền ban hành quyết định thi hành án trong trường hợp người bị kết án tại ngoại không có mặt tại nơi cư trú, theo hướng: Nếu người bị kết án đã có nơi cư trú cụ thể và rõ ràng theo lý lịch bị can (dù không có mặt tại thời điểm ra quyết định thi hành án), thì vẫn xem nơi đó là nơi cư trú hợp pháp để xác định Tòa án nơi người bị kết án cư trú theo lý lịch bị can có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

Trường hợp không thể xác minh nơi cư trú hiện tại của người bị kết án thì giao cho Công an tỉnh nơi người đó cư trú trước khi bỏ trốn tổ chức truy nã và tiếp nhận thi hành án sau khi bắt giữ.

Thứ hai, hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng còn đang áp dụng tinh thần Nghị quyết 02/2007/NQ-HĐTP (đã ban hành từ năm 2007, đã hết hiệu lực); Thông tư liên tịch số 13/2012 (ban hành trước Luật Thi hành án hình sự 2019); và Công văn số 156/TANDTC-PC năm 2021 (chỉ là hướng dẫn nội bộ). Việc thiếu một văn bản hướng dẫn liên ngành, thống nhất, cập nhật theo Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã gây ra nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các địa phương.

Vì vậy, cần thiết phải ban hành Thông tư liên tịch mới giữa Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp để hướng dẫn cụ thể các tình huống: Uỷ thác thi hành án không thành công; không xác định được nơi cư trú hiện tại của bị án; trình tự ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt để thi hành án.

Thứ ba, cần tăng cường trách nhiệm của Tòa án khu vực trong công tác thi hành án.

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án cần phối hợp chặt chẽ hơn với cơ quan điều tra và chính quyền địa phương để: Xác minh kỹ nơi cư trú thực tế của người bị buộc tội, tránh trường hợp tuyên án nhưng sau đó không thể xác định được nơi cư trú để ủy thác thi hành. Có thể cân nhắc áp dụng biện pháp tạm giam sau tuyên án đối với bị cáo bị phạt tù có thời hạn và có dấu hiệu bỏ trốn nếu pháp luật cho phép và có căn cứ.

5. Kết luận

Vấn đề thi hành án hình sự đối với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại nhưng bỏ trốn khỏi nơi cư trú là một thực tiễn pháp lý còn nhiều bất cập. Những vướng mắc về thẩm quyền ra quyết định thi hành án, cũng như sự thiếu thống nhất trong phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đã và đang làm kéo dài quá trình tổ chức thi hành bản án.

Thực trạng này cho thấy phải cấp thiết hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định liên quan đến thẩm quyền thi hành án và truy nã trong trường hợp bị án bỏ trốn. Đồng thời, cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành mang tính liên ngành, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án hình sự.

Chỉ khi có quy định pháp luật đầy đủ và cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả thi hành bản án hình sự mới được đảm bảo, góp phần thực hiện nghiêm minh pháp luật.

TRẦN ĐẶNG ANH VIỆT (Thẩm phán Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Gia Lai) - ĐOÀN THỊ MINH CHINH (Thư ký Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Gia Lai)

Một một phiên tòa ở TAND tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Ảnh: Dương Đức Nhuận.