Thời hạn kháng cáo trong trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố

Khi nguyên đơn hoặc bị đơn rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố tại phiên tòa thì Tòa án sẽ căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự để ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế phát sinh một số vướng mắc về việc xác định thời hạn kháng cáo đối với loại quyết định này: liệu đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày như đối với bản án sơ thẩm, hay phải tuân theo thời hạn 07 ngày quy định đối với các quyết định đình chỉ?

Bài viết tập trung phân tích các quy định pháp luật liên quan, đưa ra ví dụ thực tiễn, nêu rõ những bất cập và kiến nghị hướng hoàn thiện nhằm bảo đảm hiệu quả thi hành tố tụng và bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong vụ án.

1. Quy định pháp luật về thời hạn kháng cáo và một số vấn đề đặt ra

Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) quy định:

1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết…”.

Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.

Khoản 2 Điều 273 BLTTDS quy định như sau:

2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này.”.

Như vậy, trong thực tiễn xét xử, xảy ra tình huống nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố tại phiên tòa sơ thẩm. Theo điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: thời hạn kháng cáo áp dụng trong trường hợp này là 07 ngày theo khoản 2, hay 15 ngày theo khoản 1 Điều 273 BLTTDS năm 2015?

Về bản chất, khi Tòa án ra quyết định đình chỉ vì lý do đương sự rút toàn bộ yêu cầu thì đây không phải là bản án mà là quyết định theo quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015. Do đó, căn cứ để xác định thời hạn kháng cáo sẽ là khoản 2 Điều 273 BLTTDS năm 2015 với thời hạn 07 ngày.

Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn một số ý kiến cho rằng do việc rút yêu cầu được thực hiện tại phiên tòa, nên áp dụng thời hạn 15 ngày như đối với bản án là hợp lý. Cách hiểu này tiềm ẩn rủi ro về quyền kháng cáo của các đương sự.

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật

Để làm rõ hơn nội dung tác giả nêu ra ở trên, tác giả xin đưa ra một tình huống pháp lý cụ thể như sau:

Ngày 20/3/2024, Tòa án nhân dân huyện X thụ lý vụ án dân sự số 34/2024/DS-ST về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà B và bị đơn là ông C. Tại phiên tòa ngày 10/6/2024, bà B rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và ông C cũng rút toàn bộ yêu cầu phản tố. Hội đồng xét xử ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 34/2024/QĐST-DS vào cùng ngày.

Ngày 20/6/2024, ông C nộp đơn kháng cáo với lý do cho rằng mình rút yêu cầu phản tố là do bị “ép buộc về tâm lý”, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy quyết định đình chỉ.

Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện X sau đó không chấp nhận đơn kháng cáo vì cho rằng thời hạn kháng cáo chỉ là 07 ngày, tính từ ngày 10/6/2024, nên đã quá hạn theo khoản 2 Điều 273 BLTTDS năm 2015.

Với nội dung tình huống trên tồn tại một số cách hiểu và áp dụng khác nhau về thời hạn kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự rút toàn bộ yêu cầu tại phiên tòa. Dưới đây là ba nhóm quan điểm phổ biến:

Nhóm quan điểm thứ nhất: cho rằng do quyết định đình chỉ được ban hành trong khuôn khổ phiên tòa xét xử sơ thẩm, có sự tham gia của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên và công khai trước các đương sự, nên về bản chất có tính chất tương tự như một bản án sơ thẩm. Do đó, áp dụng thời hạn kháng cáo là 15 ngày theo khoản 1 Điều 273 BLTTDS năm 2015.

Quan điểm thứ hai: cho rằng, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, dù được ban hành trong phiên tòa hay ngoài phiên tòa, vẫn là một quyết định tố tụng, không phải là bản án. Do đó, chỉ có thể áp dụng thời hạn 07 ngày theo khoản 2 Điều 273 BLTTDS năm 2015. Việc ban hành tại phiên tòa không làm thay đổi bản chất pháp lý của quyết định đó.

Quan điểm thứ ba: xác định rằng nếu đương sự không được thông báo rõ về thời hạn kháng cáo, thì nên áp dụng hướng có lợi cho họ, chấp nhận kháng cáo nếu còn trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Quan điểm này xuất phát từ việc bảo vệ tối đa quyền kháng cáo – một quyền tố tụng cơ bản của đương sự.

Việc tồn tại các cách hiểu khác nhau cho thấy cần có sự thống nhất thông qua văn bản giải đáp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hoặc là ban hành án lệ về vấn đề này. Trong khi chờ hướng dẫn chính thức, các Tòa án cần tăng cường giải thích tại phiên tòa và biên bản phiên tòa cần ghi rõ về thời hạn và quyền kháng cáo đối với quyết định đình chỉ để tránh tranh chấp phát sinh.

Theo quan điểm của tác giả từ thực tiễn theo dõi và trực tiếp hỗ trợ công tác xét xử tại Tòa án, tác giả cho rằng việc áp dụng thời hạn kháng cáo 07 ngày theo khoản 2 Điều 273 BLTTDS năm 2015 đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự rút toàn bộ yêu cầu là hoàn toàn phù hợp với bản chất pháp lý của loại quyết định này.

Việc cho rằng thời hạn 15 ngày được áp dụng vì quyết định đình chỉ ban hành tại “phiên tòa” là một cách hiểu thiên về hình thức thủ tục, không đúng với phân loại bản án và quyết định trong BLTTDS năm 2015. Nếu không có sự thống nhất trong cách hiểu và hướng dẫn chính thức từ cơ quan có thẩm quyền, rất dễ dẫn đến tình trạng đương sự bị mất quyền kháng cáo do nhầm lẫn, hoặc Tòa án từ chối thụ lý đơn kháng cáo với lý do quá hạn, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công dân.

Do đó, tác giả kiến nghị trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử nên giải thích rõ ràng cho đương sự về bản chất của quyết định được ban hành và thời hạn kháng cáo tương ứng, nhất là trong các phiên tòa mà đương sự tự nguyện rút yêu cầu. Ngoài ra, Thư ký cần thể hiện nội dung này rõ ràng trong biên bản

3. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Để khắc phục những vướng mắc nêu trên, tác giả xin nêu một số giải pháp cụ thể như sau:

3.1. Về mặt pháp lý và hướng dẫn nghiệp vụ

- Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản giải đáp nghiệp vụ hoặc án lệ thống nhất về việc xác định thời hạn kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp đương sự rút toàn bộ yêu cầu tại phiên tòa.

- BLTTDS cần được sửa đổi, bổ sung rõ ràng hơn về việc xác định thời hạn kháng cáo cho từng loại quyết định, đặc biệt là các quyết định được tuyên tại phiên tòa nhưng không mang bản chất của bản án.

3.2. Về thực tiễn xét xử và công tác thư ký

- Hội đồng xét xử cần giải thích rõ cho đương sự ngay tại phiên tòa về loại quyết định được ban hành (quyết định tố tụng hay bản án) và thời hạn kháng cáo cụ thể.

- Biên bản phiên tòa cần ghi rõ nội dung thông báo quyền kháng cáo, bao gồm cả thời hạn và căn cứ pháp lý để đảm bảo tính minh bạch và hạn chế tranh chấp tố tụng sau này.

3.3. Về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

Tăng cường tập huấn cho Thẩm phán, Thư ký và Thẩm tra viên về các trường hợp đặc biệt trong tố tụng dân sự, giúp nhận diện chính xác bản chất pháp lý của từng loại văn bản tố tụng để áp dụng đúng luật và bảo đảm quyền lợi đương sự.

4. Kết luận

Việc xác định đúng thời hạn kháng cáo không chỉ là vấn đề về kỹ thuật tố tụng mà còn liên quan trực tiếp đến quyền tố tụng cơ bản của các đương sự. Trong bối cảnh còn nhiều cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất như hiện nay, cần có sự giải đáp kịp thời của Tòa án nhân dân tối cao để thống nhất nhận thức và thực tiễn xét xử trên phạm vi toàn quốc.

Đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự rút toàn bộ yêu cầu tại phiên tòa, tác giả đồng tình với quan điểm áp dụng thời hạn kháng cáo là 07 ngày theo khoản 2 Điều 273 BLTTDS năm 2015, bởi đây là quyết định tố tụng chứ không phải bản án. Tuy nhiên, để tránh tranh chấp và bảo vệ quyền lợi tố tụng chính đáng của các bên, việc giải thích rõ ràng và ghi nhận đầy đủ trong biên bản phiên tòa là điều đặc biệt cần thiết.

Một hệ thống tố tụng dân sự hiệu quả không chỉ dựa trên quy định của pháp luật mà còn phụ thuộc vào cách hiểu đúng và áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để đảm bảo công lý không chỉ được thực thi mà còn được thấu hiểu và tin tưởng.

NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC (Tòa án nhân dân khu vực 1 - Khánh Hòa)

Ảnh: nguồn Internet