Thời hạn ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành – Thực tiễn và kiến nghị
Trong phạm vi bài viết này, các tác giả phân tích quy định của pháp luật về thời hạn ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và dựa trên thực tiễn để đánh giá quan điểm về vấn đề này, từ đó đưa ra đề xuất và kiến nghị.
Quy định của Luật và các quan điểm khác nhau
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Luật HGĐT tại Tòa án) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Thực tiễn giải quyết các vụ việc theo trình tự, thủ tục của Luật HGĐT tại Tòa án hiện còn có quan điểm khác nhau về thời hạn ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia hòa giải, đối thoại[1] trong việc họ đã thống nhất, tự thỏa thuận được các vấn đề có tranh chấp và có yêu cầu Tòa án công nhận. Do đó, để hiểu đúng quy định của pháp luật về vấn đề này là hết sức cần thiết.
Trong trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại[2] thì việc công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải, đối thoại là công đoạn hết sức quan trọng, bởi lẽ tại phiên hòa giải, đối thoại nếu các bên đã thỏa thuận và thống nhất được các vấn đề có tranh chấp, thì sau phiên hòa giải thì Hòa giải viên sẽ ấn định thời gian, địa điểm mở phiên họp để cùng Thẩm phán ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại[3]. Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành hoặc đối thoại thành thì Hòa giải viên có trách nhiệm chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án để xem xét ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả khi các bên có yêu cầu[4]. Như vậy, trong thời hạn bao lâu thì Thẩm phán ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành khi các bên có yêu cầu thì vẫn còn có quan điểm khác nhau chưa thống nhất trong thực tiễn hiện nay.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án thì “Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền sau đây: Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án”. Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây: Trường hợp có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; Trường hợp không có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và nêu rõ lý do. Thẩm phán chuyển quyết định, biên bản và tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng”[5].
Thực tế, nhận thức pháp luật về vấn đề này thì còn có quan điểm khác nhau chưa thống nhất:
+ Quan điểm thứ nhất: Việc Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành khi đã hết thời hạn 15 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Còn thời hạn kể từ ngày Tòa án nhân biên bản và tài liệu kèm theo đến ngày thứ 15 thì Thẩm phán không được ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành (nếu ra thì vi phạm thời hạn ra quyết định).
+ Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của đồng tác giả: Việc ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo, Thẩm phán có quyền ra quyết định công nhận (nếu đủ điều kiện quy định tại Điều 33) hoặc không công nhận (nếu không đủ điều kiện quy định tại Điều 33) kết quả hòa giải thành, đối thoại thành (trong bất cứ thời gian nào kể từ ngày thứ 01 (ngày nhận) đến ngày thứ 15, chứ không phải đợi hết thời hạn 15 ngày thì Thẩm phán được phân công mới được quyền ra quyết định. Hết thời hạn 15 ngày theo quy định tại khoản 3 Luật HGĐT tại Tòa án là thời hạn cuối Thẩm phán phải quyết định công nhận hoặc không công nhận (nếu hết thời hạn này mà không ra quyết định là vi phạm về thời hạn ra quyết định).
Trong thời hạn 15 ngày
Để chứng minh cho quan điểm của mình, tác giả xin phân tích và đánh giá một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về cách lập pháp trong quy định của Điều luật. Chúng ta so sánh khoản 2, khoản 3 Điều 32 của Luật HGĐT tại Tòa án với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)[6] - “Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này; Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng; Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án; Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Đưa vụ án ra xét xử” thì thấy được thực tế áp dụng BLTTDS trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có quyền ra một trong các quyết định nên trên, nếu hết thời hạn mà Thẩm phán không ra các quyết định và không thuộc trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử[7] thì xem như Thẩm phán đã vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử.
Đối chiếu lại quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án thì chúng ta có thể thấy được cách lập pháp tương tự như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án là nói về thời hạn chuẩn bị ra quyết định Thẩm phán được thực hiện các quyền theo quy định để xem xét ra quyết định nếu có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 33 thì ra Quyết định công nhận và nếu không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 33 thì ra Quyết định không công nhận trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Như vậy, nếu hiểu quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật HGĐT tại Tòa án hết thời hạn 15 ngày thì Thẩm phán mới có quyền xem xét ra quyết định công nhận hoặc không công nhận là chưa đúng với tinh thần và nội dung của Điều luật.
Thứ hai, về cách xây biểu mẫu chúng ta so sánh các mẫu số 01, 02, 03, 04 theo Công văn số 235/TANDTC-PC ngày 31/12/2021 của TANDTC v/v một số biểu mẫu và quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành[8] và mẫu số 38, 40 theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC[9] thì có thể thấy rõ về thủ thuật xây dựng của các biểu mẫu quyết định theo Luật HGĐT tại Tòa án và biểu mẫu theo BLTTDS là hoàn toàn khác nhau.
Tại phần “XÉT THẤY” theo các biểu mẫu của BLTTDS thì có cụm từ “Đã hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó” cụm từ này là quy định tại Điều 212 BLTTDS[10], nghĩa là đã hết thời hạn các bên được quyền thay đổi về sự thỏa thuận tại biên bản ghi nhận trước đó thì Thẩm phán mới có quyền ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Tại phần “NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN” theo các biểu mẫu của Luật HGĐT tại Tòa án thì có cụm từ “Kết quả hòa giải thành hoặc việc thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải được ghi trong Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải ngày… tháng… năm 20… có đủ hoặc không đủ các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật HGĐT tại Tòa án” ở phần này thể hiện rõ Thẩm phán không bị khống chế về mặt thời gian cho việc ra quyết định theo như biểu mẫu của BLTTDS, mà chỉ ghi nhận việc thỏa thuận được ghi tại Biên bản ghi nhận kết quả có đủ điều kiện hay không đủ điều kiện tại Điều 33 để ra quyết định công nhận hoặc không công nhận. Như vậy, có thể thấy các biểu mẫu quyết định theo Luật HGĐT tại Tòa án không có giới hạn về thời hạn để ra quyết định là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án; măt khác nếu theo cách hết thời hạn 15 ngày theo khoản 3 Điều 32 Luật HGĐT tại Tòa án Thẩm phán mới được ra quyết định thì các biểu mẫu phải xây dựng có cụm từ về nội dung của luật quy định như “Kết quả hòa giải thành hoặc việc thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải được ghi trong Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải ngày… tháng… năm 20… kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo, đã hết thời hạn 15 ngày và có đủ hoặc không đủ các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật HGĐT tại Tòa án” thì mới phù hợp.
Thứ ba, việc các bên tự nguyện chọn thủ tục hòa giải, đối thoại tại Tòa án để giải quyết vấn đề tranh chấp nghĩa là các bên cũng có một định hướng nhất định để thương lương với nhau về nội dung tranh chấp và ngoài ra họ còn mong muốn giữ bí mật về nội dung tranh chấp. Việc tiến tới lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành[11] là các bên đã được trao đổi, bàn bạc với nhau về vấn đề tranh chấp trước sự chủ trì của Hòa giải viên và đã thống nhất thỏa thuận được việc tranh chấp. Việc lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là nhằm mục đích để làm cơ sở Tòa án xem xét ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành giữa các bên, nội dung biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành[12] cũng không thể hiện các bên sẽ được thay đổi nội dung thỏa thuận trong thời hạn bao lâu, vì họ đã hiểu rõ và xác định được quyền và nghĩa vụ trong việc hòa giải thành, đối thoại thành và cùng có yêu cầu Tòa án công nhận. Do đó, việc ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành giữa các bên phải được hiểu là trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo thì mới đảm bảo tính kịp thời và nhanh chóng giải quyết dứt điểm các vấn đề tranh chấp giữa các bên; thể hiện được việc tôn trọng sự tự nguyện và định đoạt giữa các bên về các vấn đề tranh chấp và giúp cho các bên hạn chế được thời gian và công sức trong việc giải quyết tranh chấp với nhau.
Kết luận
Như vậy, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 32 của Luật HGĐT tại Tòa án thì tác giả xác định thời hạn để Thẩm phán ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phải được hiểu là trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo thì mới đúng tinh thần và nội dung của Điều luật.
Từ những phân tích, lập luận, đánh giá nêu trên có thể thấy được quy định của pháp luật hiện hành về thời hạn ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành còn có cách hiểu khác nhau, chưa được thống nhất áp dụng trong công tác giải quyết các vụ việc tranh chấp hiện nay theo trình tự, thủ tục của Luật HGĐT tại Tòa án. Đồng tác giả, kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể thống nhất đối với thời hạn ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành tại Tòa án.
Hòa giải viên Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TAND TP. Nha Trang trao đổi với đương sự- Ảnh: Nguyễn Vũ
[1] Khoản 6, 7 Điều 2 Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[2] Chương III – Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[3] Khoản 1 Điều 27 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[4] Khoản 1 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[5] Khoản 2, 3 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[6] Khoản 2, khoản 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.
[7] Điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.
[8] Công văn số: 235/TANDTC-PC ngày 31/12/2021 của Tòa án nhân dân tối cao.
[9] Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
[10] Khoản 1 Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự.
[11] Điều 31 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
[12] Mẫu số 11 - Ban hành kèm theo Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chánh án TANDTC.
Bài liên quan
-
Thủ tục hòa giải, đối thoại theo Luật Hòa giải đối thoại tại Tòa án - Bất cập và một số kiến nghị
-
Lấy ý kiến con chưa thành niên từ 7 tuổi trở lên ở Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án
-
Thẩm quyền theo lãnh thổ khi giải quyết các tranh chấp dân sự theo luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án
-
Tòa án nhân dân tối cao Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Thông qua Pháp lệnh Chi phí tố tụng, tăng phụ cấp cho hội thẩm lên 900.000 đồng/ngày
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận