Tố tụng dân sự – “Sổ đỏ” cấp sai: NÊN HỦY HAY THU HỒI?
“Sổ đỏ” - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái pháp luật trong các vụ án dân sự đã khiến cho không ít các cơ quan nhà nước (Tòa án, Ủy ban nhân dân có thẩm quyền) đau đầu do phải giải quyết, phải theo kiện... Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật tố tụng và đất đai, chỉ ra sự hạn chế, thiếu thống nhất trong các quy định của pháp luật, những vướng mắc trong giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến GCNQSDĐ, tác giả kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan và giải pháp khắc phục vướng mắc.
Thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, cụ thể như sau:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.”
Trong tình hình tranh chấp đất đai hiện nay ở các địa phương ngày một tăng, hầu hết các vụ án tranh chấp đất đai đều có liên quan đến “Sổ đỏ” – Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Vậy các vụ án tranh chấp đất đai đó, Tòa án có được hủy GCNQSDĐ cấp trái pháp luật theo quy định tại Điều 34 của BLTTDS 2015 hay không?
Vấn đề này đã được Tòa án nhân dân tối cao giải đáp tại Giải đáp số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016. Theo Giải đáp này, GCNQSDĐ là quyết định hành chính cá biệt, khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất mà GCNQSDĐ trái pháp luật thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự xem xét hủy GCNQSDĐ đó theo quy định tại Điều 34 BLTTDS. Đồng thời, Tòa án phải đưa cơ quan đã cấp GCNQSDĐ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và thẩm quyền giải quyết vụ án được xác định theo quy định Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính (Luật TTHC) 2015.
Với Giải đáp số 02/2016/GĐ-TANDTC nêu trên và quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại Điều 32 Luật TTHC 2015[i] thì hầu hết các vụ án dân sự có liên quan đến GCNQSDĐ trái pháp luật đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng: (1) Các vụ án dân sự cứ có liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là TAND cấp huyện chuyển hồ sơ vụ án lên TAND cấp tỉnh để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm; (2) đồng thời, khi giải quyết vụ án, TAND đưa cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (UBND cấp có thẩm quyền) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này dẫn đến hệ quả là TAND cấp tỉnh thì phải giải quyết quá nhiều án dân sự theo trình sơ thẩm, các Tòa án cấp cao phải giải quyết quá nhiều án dân sự phúc thẩm; UBND (cấp có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ) cũng phải tham gia tố tụng quá nhiều, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của TAND cấp tỉnh, cấp cao cũng như hoạt động quản lý nhà nước của UBND các cấp.
Bên cạnh đó, trường hợp Tòa án tuyên hủy GCNQSDĐ thì xử lý hậu quả của việc hủy GCNQSDĐ này như thế nào cũng chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể.
Quy định của pháp luật về đất đai về việc thu hồi, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng pháp luật đất đai cũng quy định trong quá trình sử dụng đất có biến động, GCNQSDĐ sẽ được điều chỉnh cho phù hợp.
Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định về đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp, cụ thể như sau:
“Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp có sai sót trong các trường hợp sau đây:
a) Có sai sót thông tin về tên gọi, giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân, địa chỉ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất so với giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận của người đó;
b) Có sai sót thông tin về thửa đất, tài sản gắn liền với đất so với hồ sơ kê khai đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất đã được cơ quan đăng ký đất đai kiểm tra xác nhận.
Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.”
Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 được sủa đổi bổ sung theo Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017) quy định về thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp) tại các khoản 4, 5, 6 và 7 quy định:
“4. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định Giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra;
b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;
c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai;
d) Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc thu hồi và quản lý Giấy chứng nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý thiệt hại do việc cấp Giấy chứng nhận pháp luật gây ra thực hiện theo quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân. Người có hành vi vi phạm dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật bị xử lý theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Luật Đất đai.
Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành.
Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều này mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không giao nộp Giấy chứng nhận thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp; chỉnh lý hồ sơ địa chính theo quy định; lập danh sách Giấy chứng nhận đã bị hủy gửi Sở Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai để thông báo công khai trên trang thông tin điện tử.”
Như vậy, theo các quy định nêu trên của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp trong những trường hợp có sai sót mà những sai sót đó không ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người sử dụng đất; Nhà nước thu hồi GCNQSDĐ đã cấp trong các trường hợp cụ thể như Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với các trường hợp này do cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ quy định tại Điều 105[ii] của Luật Đất đai quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp; văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai; bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án đã được thi hành. Cần nhấn mạnh quy định này là thu hồi GCNQSDĐ chứ không phải là hủy GCNQSDĐ và chỉ trong trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không giao nộp Giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ mới quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp.
Kiến nghị, đề xuất
Với quy định nêu trên của BLTTDS 2015 và xác định GCNQSDĐ là quyết định cá biệt thì khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án phải áp dụng Điều 34 BLTTDS để xem xét hủy GCNQSDĐ là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật[iii].
Nhưng với quy định của Luật Đất đai năm 2013 nêu trên, khi giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến GCNQSDĐ, Tòa án không phải hủy GNCQSDĐ theo quy định tại Điều 34 BLTTDS 2015 mà khi Tòa án không xem xét hủy GCNQSDĐ thì Tòa án cũng không phải áp dụng quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Và cũng cần phải thấy rằng, khoản 6 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP là chưa bao quát được hết các trường hợp xảy ra trong thực tiễn khi quy định điều kiện thu hồi GCNQSDĐ “chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành”. Quy định này đã thu hẹp phạm vi thu hồi GCNQSDĐ so với quy định tại khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013. Theo quy định tại khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015[iv] thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Vì vậy, việc thu hồi GCNQSDĐ được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Đất đai năm 2013 đó là được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật. Trong bối cảnh hiện nay, khi Nhà nước đang xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai, theo tác giả, rất cần bổ sung nội dung trên vào Luật Đất đai.
Đồng thời, để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, khoản 1 Điều 34 BLTTDS cũng cần quy định loại trừ việc Luật Đất đai đã quy định thẩm quyền thu hồi và hủy GCNQSDĐ. Theo tác giả, khoản 1 Điều 34 BLTTDS có thể sửa đổi, bổ sung như sau: “1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết, trừ trường hợp luật khác có quy định khác”.
Tuy nhiên, trước mắt, để tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong công tác xét xử, chấm dứt tình trạng án dân sự sơ thẩm tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến GNCQSDĐ trái pháp luật phải chuyển lên Tòa án cấp tỉnh như hiện nay, đồng thời, hạn chế sự ảnh hưởng hoạt động của UBND cấp có thẩm quyền cũng như giảm nhẹ công việc mà Tòa án cấp sơ thẩm phải làm, tác giả kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường) nghiên cứu thấu đáo và ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn về vấn đề này. Theo tác giả, cần hướng dẫn về việc giải quyết vụ án có liên quan đến GCNQDSĐ trái pháp luật như sau:
Khi giải quyết vụ án có liên quan đến GCNQSDĐ trái pháp luật (cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai…) thì Tòa án phải nhận định trong bản án, quyết định giải quyết vụ án. Đồng thời, khi giải quyết vụ án, Tòa án không phải đưa cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (UBND có thẩm quyền) vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trừ trường hợp có đương sự yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do cấp GCNQSDĐ không đúng. Tòa án giải quyết vụ án, xác định chủ thể có quyền sử dụng đất. Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận (UBND) căn cứ vào các quy định của Luật đất đai năm 2013 có trách nhiệm thu hồi GCNQSDĐ đã cấp không đúng, đồng thời, cấp GCNQSDĐ mới cho chủ thể có quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án.
Với cách giải quyết này sẽ không còn tình trạng án dân sự sơ thẩm có tranh chấp quyền sử dụng đất ùn lên Tòa án cấp tỉnh nữa. Đồng thời, hạn chế sự ảnh hưởng hoạt động của UBND cấp có thẩm quyền cũng như giảm nhẹ công việc mà Tòa án cấp sơ thẩm phải làm.
[i] Điều 32 Luật TTHC 2015 quy định:
“Điều 32. Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật này.”
[ii] Điều 105 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Điều 105. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Đối với những trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng mà thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng thì do cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
[iii] Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định:
“3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”
[iv] Khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định:
“2. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.”
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
1 Bình luận
Vũ Thanh Hà
04:44 26/11.2024Trả lời