Tòa án có thẩm quyền huỷ nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai hay không?

Bài viết phân tích bản chất pháp lý của Sổ mục kê, nêu các quan điểm khác biệt trong thực tiễn xét xử về thẩm quyền của Tòa án đối với yêu cầu này và mong muốn nhận được trao đổi của đồng nghiệp để bảo đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất pháp luật.

Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự về lĩnh vực đất đai, một vấn đề đáng chú ý nổi lên từ thực tiễn là việc Tòa án xem xét, giải quyết yêu cầu hủy nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai đối với một chủ sử dụng đất nào đó. Thực tiễn ghi nhận có những bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu, trong khi một số bản án khác, đặc biệt là bản án phúc thẩm đã huỷ, sửa nội dung này, làm xuất hiện sự không thống nhất, từ đó làm phát sinh các tranh luận về thẩm quyền và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với vấn đề trên[1]. Từ thực tiễn xét xử, bài viết phân tích bản chất pháp lý của Sổ mục kê, đưa ra quan điểm của tác giả trong việc Tòa án có thẩm quyền hủy nội dung Sổ mục kê hay không.

1. Bản chất pháp lý của Sổ mục kê đất đai

Để xác định thẩm quyền của Tòa án đối với yêu cầu hủy nội dung Sổ mục kê, trước hết cần làm rõ bản chất pháp lý của loại tài liệu này.

Trong lịch sử pháp luật đất đai Việt Nam, Sổ mục kê đất đai từng được định nghĩa tại khoản 15 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 là “sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó”. Hiện nay, theo quy định tại các điều 128, 129 Luật Đất đai 2024 quy định Sổ mục kê đất đai là một thành phần của hồ sơ địa chính thể hiện thông tin về từng thửa đất, người được giao quản lý đất, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, tình trạng pháp lý của thửa đất và tài sản gắn liền với đất… Sổ mục kê được lập dựa trên kết quả đo đạc thực địa, thông tin kê khai của người sử dụng đất, đối chiếu với các tài liệu lưu trữ khác như sổ địa chính, các giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất theo quy định.  

Về phương diện pháp lý, Sổ mục kê có những đặc điểm cơ bản sau:

(1) Là tài liệu mang tính kỹ thuật, thống kê: Chức năng chính của Sổ mục kê là mô tả, liệt kê hiện trạng quản lý, sử dụng đất tại một thời điểm nhất định. Nó không phải là văn bản thể hiện ý chí định đoạt của cơ quan nhà nước trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hay thu hồi đất.

(2) Không trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của người sử dụng đất: Khác với quyết định hành chính – được định nghĩa là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể và làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của đối tượng đó[2] – Sổ mục kê không mang các thuộc tính này. Việc ghi tên một cá nhân trong Sổ mục kê chỉ phản ánh hiện trạng người đang quản lý, sử dụng đất tại thời điểm kiểm kê, thống kê, chứ không đồng nghĩa với việc xác lập hay công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho cá nhân đó. Quyền sử dụng đất hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức được xác lập chủ yếu thông qua Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ) hoặc các quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

(3) Là một bộ phận của hồ sơ địa chính: Sổ mục kê cùng với bản đồ địa chính, sổ địa chính và các tài liệu khác hợp thành hồ sơ địa chính, phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai, cung cấp thông tin cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, thu hồi đất, đăng ký biến động và cấp GCNQSDĐ.

Mặc dù không phải là quyết định hành chính, Sổ mục kê (đặc biệt là các sổ được lập trước ngày 18/12/1980) được công nhận là một trong những loại giấy tờ về quyền sử dụng đất có thể làm căn cứ để xem xét cấp GCNQSDĐ nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 (nay là Điều 137 Luật Đất đai 2024) và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, vai trò này chỉ mang tính chất là một nguồn chứng cứ, một cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, ban hành quyết định hành chính là GCNQSDĐ.

2. Các quan điểm pháp lý từ thực tiễn xét xử

Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự liên quan đến yêu cầu hủy nội dung trang ghi Sổ mục kê cho thấy sự thiếu thống nhất trong quan điểm áp dụng pháp luật, dẫn đến các phán quyết ngược chiều. Có hai quan điểm chính như sau:

Quan điểm thứ nhất: Tòa án có thẩm quyền hủy nội dung Sổ mục kê nếu nội dung đó sai lệch, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể sử dụng đất. Quan điểm này cho rằng, mặc dù Sổ mục kê không phải là quyết định hành chính, nhưng nó là tài liệu do cơ quan nhà nước lập và quản lý. Nếu nội dung ghi trong Sổ mục kê có sai sót (ví dụ, ghi sai tên người sử dụng đất, sai diện tích, sai loại đất) và sự sai sót này trực tiếp gây ảnh hưởng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp (ví dụ, tranh chấp về quyền sử dụng đất, chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất), thì Tòa án có thẩm quyền xem xét và hủy bỏ phần nội dung sai lệch đó.

Quan điểm thứ hai (cũng là quan điểm của tác giả): Tòa án không có thẩm quyền hủy nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai dựa trên các cơ sở sau:

(1) Sổ mục kê không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính: Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính. Do Sổ mục kê không phải là quyết định hành chính cá biệt và bản thân nội dung ghi nhận trong Sổ cũng không phải là hành vi hành chính (mà là kết quả của một quá trình kỹ thuật, nghiệp vụ), nên yêu cầu hủy nội dung Sổ mục kê không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong tố tụng hành chính. Do đó, trong vụ án dân sự, Tòa án không thể áp dụng Điều 34 BLTTDS 2015 để huỷ nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai.

(2) Thẩm quyền đính chính, sửa đổi Sổ mục kê thuộc về cơ quan quản lý đất đai: Khi phát hiện sai sót trong Sổ mục kê hoặc các tài liệu khác trong hồ sơ địa chính, việc đính chính, sửa đổi thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai, cụ thể là Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, theo quy định về đính chính hồ sơ địa chính. Ví dụ, Điều 86 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định về đính chính GCNQSDĐ đã cấp và các quy định liên quan đến cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính tại Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT, cũng như các hướng dẫn chi tiết hơn về đính chính GCNQSDĐ tại Điều 10 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nếu người dân không đồng ý với việc cơ quan hành chính từ chối đính chính hoặc nội dung đính chính, họ có thể khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định/hành vi hành chính liên quan đến việc đính chính đó, chứ không phải khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy nội dung gốc của Sổ mục kê.

Tác giả mong nhận được các ý kiến trao đổi của đồng nghiệp quan tâm để cùng làm sáng tỏ vấn đề nhằm hướng tới thống nhất trong áp dụng pháp luật.

LÊ THIẾT HÙNG (Phó Chánh án TAND tỉnh Quảng Trị)

Tài liệu tham khảo

1. Luật Đất đai năm 2013.

2. Luật Đất đai năm 2024.

3. Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

4. Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai.

6. Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.

7. Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về bản đồ địa chính.

8. Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai.

9. Thông báo rút kinh nghiệm số 19/TB-VC2-DS ngày 06/5/2025 của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.

10. Các bản án dân sự phúc thẩm số 43/2025/DSPT ngày 22/01/2025 và số 171/2025/DSPT ngày 26/4/2025 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.


[1] Các bản án dân sự phúc thẩm số 43/2025/DSPT ngày 22/01/2025 và số 171/2025/DSPT ngày 26/4/2025  của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

[2] Khoản 1, 2 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.