Tòa án và nguyên tắc xét xử theo lẽ công bằng
Ngày 24/11/2015, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã chính thức thông qua Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, ghi nhận một nguyên tắc chưa từng có trong lịch sử lập pháp, đó là Tòa án có quyền xét xử theo “Lẽ công bằng” đối với những trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật.
Vậy, Lẽ công bằng là gì, và việc áp dụng nguyên tắc này vào hoạt động xét xử của Tòa án sẽ được thực hiện như thế nào?
Quan niệm về Lẽ công bằng
Khái niệm “Lẽ công bằng” có nguồn gốc từ chữ equitas trong tiếng La tinh, có nghĩa là sự bình đẳng. Nhưng khi trở thành tiếng Pháp (équité) và tiếng Anh (equity) thì lại mang ý nghĩa là Lẽ công bằng.
Cũng như vấn đề nguồn gốc của luật pháp, ý niệm về Lẽ công bằng đã được nhiều triết gia, học giả trên thế giới đề cập từ rất sớm, và cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về Lẽ công bằng.
Trong tác phẩm “Nền luân lý lớn” Aristote cho rằng: “Lẽ công bằng là một nền công lý tốt hơn, nó sửa sai nền công lý bằng pháp luật trong trường hợp đặc biệt, khi nền công lý bằng pháp luật này dẫn đến những kết quả bất công vì những câu chữ tổng quát của một đạo luật không dự liệu tất cả”.
Như vậy, Lẽ công bằng theo quan niệm của Aristote có chiều hướng gần với các nguyên lý của Luật tự nhiên, và sự tồn tại của nó bên cạnh hệ thống pháp luật thành văn là để khắc phục những bất cập mà hệ thống pháp luật này (do tính cách tổng quát của nó) không thể nào thực hiện được.
Chẳng hạn, pháp luật thành văn quy định, trộm cắp là hành vi tội phạm thì quy định đó bao giờ cũng mang tính cách tổng quát và được áp dụng chung cho bất kỳ ai thực hiện hành vi trộm cắp, mà không phân biệt trường hợp nào là trộm cắp với ý chí gian xảo, và trường hợp nào trộm cắp là do sự bần cùng, đói khát của con người. Vì vậy, ý niệm về Lẽ công bằng cần phải được áp dụng để khắc phục những sai lầm do tính chất tổng quát đó của luật pháp.
Thế nhưng, không phải ai cũng đồng ý với quan niệm trên của Aristote về Lẽ công bằng.
Vào thế kỷ thứ XVII, tại Anh tác giả J. Selden đã nhận xét về Lẽ công bằng với lời lẽ châm biếm như sau: “Lẽ công bằng tùy thuộc vào lương tâm của người làm Quan Thượng thư, tất cũng tùy thuộc vào lương tâm đó rộng hay hẹp. Việc đó giống như người ta dùng bàn chân của Quan Thượng thư làm đơn vị đo lường. Đơn vị này thật không sao chính xác. Quan thượng thư này có bàn chân dài, [trong khi] vị quan khác lại có bàn chân ngắn… Vậy thì lẽ công bằng thay đổi theo độ dài các bàn chân của Quan Thượng thư”.
Blackstones – một tác giả sống vào thế kỷ thứ XVIII, trong tác phẩm “Bàn về luật nước Anh” còn cực đoan hơn khi đưa ra chọn lựa dứt khoát giữa luật pháp và Lẽ công bằng: “Pháp luật không Lẽ công bằng, dù khó khăn trong thực hiện, tuyệt đối cũng đáng chuộng hơn Lẽ công bằng không pháp luật”.
Áp dụng Lẽ công bằng trong thực tiễn xét xử
Mặc dù cuộc tranh luận về luật pháp và Lẽ công bằng, cho đến nay vẫn chưa có hồi kết, nhưng có một thực tế là, quan niệm về Lẽ công bằng đã được nhiều Quốc gia nhìn nhận và áp dụng trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Điển hình là các nước thuộc hệ thống Common Law như Anh, Mỹ…
Tại Thụy Sĩ, Bộ Dân luật Thụy sĩ quy định: “Thẩm phán áp dụng các quy tắc luật pháp và sự công bằng mỗi khi luật dành cho Thẩm phán quyền quyết định hay tuyên án tùy theo trường hợp hoặc lý do chính đáng”.
Ở nước ta, trước khi BLDS 2015 ra đời, khái niệm “Lẽ công bằng” chưa từng được nhắc đến trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng trong một chừng mực nào đó, nó vẫn được ghi nhận và thể hiện trong các quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) . Và, chính từ những quyết định Giám đốc thẩm này, sau đó đã được TANDTC tuyển chọn và phát triển thành các Án lệ hiện nay.
Nhìn chung, Lẽ công bằng thường được áp dụng trong hoạt động xét xử của Tòa án trong hai trường hợp: (i) Luật có quy định, nhưng trường hợp vi phạm là một ngoại lệ, (ii) Luật chưa có quy định.
Điển hình cho trường hợp thứ nhất là vụ án cô Ménard ăn cắp bánh mỳ nổi tiếng xảy ra tại nước Pháp vào thế kỷ thứ XIX. Trong cơn túng quẫn và đói khát của cả hai mẹ con, Ménard đã đập vỡ cửa kính của một cửa hiệu để ăn cắp bánh mỳ và bị bắt đưa ra Tòa án. Chánh án Magnaud của Tòa Tiểu Hình Château – Thierry, ngày 4 tháng 3 năm 1898 đã tha bổng Ménard với lập luận trong bản án như sau:
Thật đáng tiếc rằng, trong một xã hội được tổ chức chu đáo, lại có một thành viên của xã hội ấy, mà nhất là một người làm mẹ của một gia đình, có thể thiếu bánh mỳ để ăn mà không phải do lỗi của chính mình. Khi một trường hợp như vậy xảy ra và được xác định rõ như trường hợp của cô Ménard, Thẩm phán có nghĩa vụ phải giải thích một cách nhân đạo những quy định thiếu mềm dẻo của luật pháp; sự bần cùng và đói khát có thể làm cho con người mất đi một phần của tự do ý chí, và cũng có thể, trong một chừng mực nào đó, làm giảm đi nơi người này khái niệm về cái đúng và cái sai; một hành vi thông thường đáng trách cứ, sẽ trở nên không đáng trách khi người vi phạm chỉ hành động vì nhu cầu khẩn thiết, phải tìm cho mình một miếng ăn thuộc nhu yếu phẩm hàng đầu…
Mặc dù sau đó, với quan điểm bảo thủ, toà Thượng thẩm Amiens đã không chấp nhận lập luận trên của Tòa tiểu hình, nhưng cũng nhận định rằng, Ménard không có ý chí gian xảo, nên đã chấp nhận việc tha bổng bị cáo.
Khác với nhiều quốc gia thuộc hệ thống Common Law, nguyên tắc xét xử theo Lẽ công bằng của ta, hiện chỉ được quy định trong BLDS 2015. Điều đó có nghĩa, nguyên tắc này chỉ được áp dụng trong các quan hệ pháp luật dân sự, còn trong Hình luật thì không có quy định này. Ngoài ra, việc áp dụng Lẽ công bằng cũng hết sức hạn chế. Theo đó, Tòa án chỉ áp dụng Lẽ công bằng trong trường hợp không có tập quán và cũng không thể áp dụng được nguyên tắc tương tự pháp luật (khoản 2 Điều 6 BLDS).
Chẳng hạn, trong vụ kiện tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy “Hợp đồng tặng cho nhà ở” giữa bị đơn với người thứ ba vì cho rằng, bị đơn có tài sản nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà lại đem tài sản đó tặng cho người khác để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Rõ ràng trong trường hợp này, cả pháp luật và tập quán đều không có quy định nào cấm một người tặng cho tài sản khi bản thân họ chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho người khác. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người cho vay tài sản, Thẩm phán có thể dựa vào nguyên tắc Lẽ công bằng cũng như các quy định về thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung, để tạo ra một Án lệ với quan điểm pháp lý rằng: Khi một người chưa thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với người khác, thì họ không có quyền tặng cho tài sản thuộc sở hữu của mình cho người thứ ba, để hủy bỏ giao dịch tặng cho nhà ở nói trên.
Và, chúng ta có thể nói rằng, trong trường hợp này, Lẽ công bằng đã được tòa án áp dụng để khắc phục những thiếu sót mà trước đó luật pháp đã chưa tiên liệu được.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận