Trần Văn V phạm tội “Làm mất vũ khí quân dụng”

Sau khi đọc được bài viết "Trần Văn V phạm tội gì?” của tác giả Nguyễn Thanh Huyền đăng ngày 25/5/2023, tôi cho rằng Trần Văn V phạm tội “Làm mất vũ khí quân dụng”.

Thứ nhất, về khách thể của tội phạm: Đối tượng bị xâm phạm trong tình huống này là vũ khí quân dụng (cụ thể là 7 khẩu súng ngắn) được Nhà nước trang bị cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh TN quản lý. Theo khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 14/2017/QH14 ngày 20/6/2017, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định: “2. Vũ khí quân dụng là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật này để thi hành công vụ, bao gồm: a) Súng cầm tay bao gồm: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu...”. Như vậy, 7 khẩu súng ngắn trong tình huống tác giả đưa ra nằm trong phạm vi quy định tại điều luật này.

Như chúng ta đã biết, vũ khí quân dụng được xác định là tài sản đặc biệt của Nhà nước giao cho quân đội để huấn luyện và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chính vì điểm đặc biệt này mà tội “Làm mất vũ khí quân dụng” được quy định thành một tội danh độc lập trong BLHS năm 2015 thuộc Chương XXV - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Do đó, khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng và sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội (trong tội làm mất vũ khí quân dụng) được hướng đến nhiều hơn là trực tiếp xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.... (trong tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 BLHS năm 2015).

Thứ hai, về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm làm mất vũ khí quân dụng là chủ thể đặc biệt. Chỉ có những người được quy định tại Điều 392 BLHS mới có thể thực hiện tội phạm. Cụ thể: “1) Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng; 2) Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện; 3) Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; 4) Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Trong tình huống tác giả đưa ra: Trần Văn V là thủ kho vũ khí thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh TN. Theo quy định của đơn vị, khi thủ kho vũ khí nghỉ phép hay đi công tác phải bàn giao lại chìa khóa kho vũ khí cho trợ lý kỹ thuật của đơn vị. Ngoài ra, nhiệm vụ chính của thủ kho vũ khí là tiến hành kiểm tra, nắm chắc số lượng vũ khí trang bị trong kho, ghi chép đầy đủ vào sổ theo dõi người vào kho, chìa khóa kho phải để và bảo quản đúng nơi quy định, khi ra về phải gửi lại bảo mật của đơn vị.” Như vậy, Trần Văn V đã đáp ứng đủ điều kiện về chủ thể đặc biệt của tội phạm này.

Thứ ba, về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi làm mất gây hậu quả nghiêm trọng của người được giao quản lý, được trang bị vũ khí quân dụng. Làm mất vũ khí quân dụng là hành vi vi phạm các quy định về quản lý, giữ gìn, vận chuyển làm cho vũ khí quân dụng thoát ly khỏi sự quản lý của đơn vị được giao quản lý, sử dụng. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm khi có hậu quả nghiêm trọng xảy ra.

Tình huống tác giả đưa ra, trong quá trình đảm nhiệm chức trách, nhiệm vụ thủ kho, Trần Văn V đã không thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý vũ khí. Khi được về nghỉ phép 1 tuần để thăm gia đình, V đã tự ý đưa lại chìa khóa cho anh M. Việc giao nhận này không có biên bản giao nhận, cũng như không có sự chỉ đạo của chỉ huy đơn vị. Khi trở lại đơn vị, V có nhận lại chìa khóa kho nhưng không kiểm tra lại số lượng vũ khí trang bị có trong kho. Dẫn đến hậu quả khi đoàn kiểm tra cấp trên tiến hành kiểm tra thì phát hiện mất 07 khẩu súng ngắn. Đơn vị yêu cầu Trần Văn V báo cáo nhưng V không giải trình được thời gian và nguyên nhân mất 07 khẩu súng trên.

Theo hướng dẫn tại mục 6 phần III Thông tư số 01/2003/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP ngày 11/08/2003: “D1) Gây thiệt hại về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự thuộc một trong các trường hợp sau được coi là gây hậu quả nghiêm trọng: “Từ 3 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên”. Như vậy, hành vi của Trần Văn V làm mất “07 khẩu súng ngắn” đã thỏa mãn dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời tội phạm cũng hoàn thành khu có hậy quả nghiêm trọng xảy ra.

Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý, theo tình huống tác giả đưa ra thì có thể thấy rằng Trần Văn V vô ý phạm tội do quá tự tin, V thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Từ các phân tích về 4 yếu tố cấu thành tội phạm trên, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Văn V về tội “Làm mất vũ khí quân dụng” theo Điều 414 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Trên đây là quan điểm của tôi, rất mong nhận được sự phản hồi và trao đổi cùng với quý bạn đọc./.

 

Tòa án  tỉnh Kon Tum  xét xử vụ án “Giết người và Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”- Ảnh: Hoài Tiến

 

NGUYỄN THỊ HÀ (VKSQS khu vực 41)