Vai trò công ty hợp danh trong lĩnh vực cung dịch vụ pháp lý qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Trong điều kiện hội nhập quốc tế, vấn đề hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL là một yêu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đó cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra.

Loại hình mới

Trong hơn 31 năm đổi mới (1986 – 2019), chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sự. Các hoạt động của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư (công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý, công ty luật trách nhiệm hữu hạn, Văn phòng luật sư) đã đáp ứng kịp thời một phần nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp. Đồng thời góp phần từng bước tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Ở Việt Nam, công ty hợp danh (CTHD) hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý (DVPL) là loại hình doanh nghiệp mới được ghi nhận. Theo Luật luật sư (2012), các tổ chức hành nghề kinh doanh DVPL tại Việt Nam gồm có công ty luật hợp danh (CTLHD), công ty luật trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và văn phòng luật sư. Điều này thể hiện tính liên tục của quá trình phát triển và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp nhất với điều kiện và lợi ích của mình, hình thành môi trường và hành lang pháp lý an toàn, thúc đẩy và khuyến khích họ kinh doanh theo đúng pháp luật.

Riêng đối với lĩnh vực DVPL, việc thành lập CTHD có nhiều ưu điểm hơn so với việc kinh doanh dưới các hình thức doanh nghiệp khác. Trong công ty luật TNHH, vốn bằng tài sản có thể trị giá được bằng tiền là yếu tố quyết định chi phối việc phân chia quyền và lợi ích trong công ty, song các nguồn vốn khác, đặc biệt là trình độ chuyên môn và uy tín thường không được quan tâm nhiều, mặc dù đối với ngành nghề kinh doanh dịch vụ, “Trí tuệ và trình độ chuyên môn mới là yếu tố quyết định tạo ra lợi nhuận, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín doanh nghiệp trên thị trường”[1]. Danh tiếng và uy tín nghề nghiệp mới chính là nhân tố bảo đảm, là tiêu chí quan tâm hàng đầu của khách hàng khi họ sử dụng dịch vụ. Cho nên, hình thức góp danh để thành lập CTHD rất phù hợp trong lĩnh vực cung cấp DVPL. Ngoài ra, những người có trình độ chuyên môn và uy tín cao nhưng ít vốn thường không có lợi thế nếu họ tham gia vào loại hình công ty đối vốn như công ty luật TNHH. Mô hình CTHD vừa tạo thêm cơ hội cho các chuyên gia pháp lý quyền lựa chọn mô hình đầu tư phù hợp với bản thân, vừa bảo đảm được sự công bằng đối với người góp vốn bằng trí tuệ. Chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên trong CTHD đáp ứng được yêu cầu trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư, nó cũng là sự bảo đảm, tạo tâm lý an tâm cho khách hàng khi có nhu cầu sử dụng DVPL.

Đặc điểm của CTHD trong lĩnh vực cung cấp DVPL

Với mô hình CTHD ở Việt Nam, những nhà đầu tư có thể lựa chọn kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào mà pháp luật không cấm nhưng có thể nói, đây là loại hình doanh nghiệp đặc biệt phù hợp đối với các ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp cao như kinh doanh DVPL. Do đó, pháp luật nhiều nước quy định khi kinh doanh dịch vụ này bắt buộc phải thành lập CTHD bởi vì nếu cho phép DVPL được kinh doanh dưới hình thức công ty luật TNHH như hiện nay có thể sẽ mang lại sự chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm của người hành nghề vì chế độ trách nhiệm hữu hạn đã là “tấm lá chắn” tương đối an toàn cho nhà đầu tư khi gặp rủi ro. Còn nếu bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp dưới hình thức CTHD có thể sẽ khiến các luật sư gặp phải những khó khăn nhất định, nhưng đổi lại, tinh thần trách nhiệm, ý thức về công việc sẽ phải cao hơn. So sánh giữa những giá trị đạt được và hạn chế của việc bắt buộc phải kinh doanh DVPL dưới hình thức CTHD, có thể thấy hiệu quả mà chúng mang lại sẽ tích cực hơn và đáp ứng tốt hơn yêu cầu từ phía xã hội.

Trên thực tế, trong thời gian trước đây, Pháp lệnh luật sư (2001) đã từng có quy định rằng khi kinh doanh DVPL thì bắt buộc phải kinh doanh dưới hình thức là các văn phòng luật hoặc phải thành lập mô hình CTHD. Mô hình này được tổ chức gần giống như mô hình CTHD trong pháp luật hiện hành. Mặt khác, thói quen kinh doanh của người Việt là luôn đề cao sự tin cậy, quen biết nhau, phải tâm đầu ý hợp, hiểu rõ tính tình nhau, biết rõ ưu thế cá nhân, khả năng làm việc và tài chính của nhau; đây là những yếu tố có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư. Có thể khẳng định rằng yếu tố nhân thân, sự tin cậy luôn được coi trọng trong tư duy kinh doanh của người Việt và do đó mà công ty mới được thành lập.

Hiện nay, Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL là một dạng CTHD đặc thù, cho nên bên cạnh những đặc điểm của CTHD nói chung, nó còn có một số điểm riêng biệt như sau:

Thứ nhất, về tư cách thành viên. Thành viên của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL là luật sư. Luật sư phải đáp ứng các điều kiện về năng lực hành vi dân sự, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp…

Thứ hai, về trách nhiệm. Trong quá trình tồn tại, công ty tất yếu phải xác lập mối quan hệ với khách hàng và khi phát sinh trách nhiệm thì khách hàng chính là chủ nợ của công ty.

Thứ ba, về tư cách pháp nhân. Theo LDN và LLS, CTHD có tư cách pháp nhân, công ty có tên gọi, có trụ sở giao dịch ổn định, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng khối tài sản đó.

Thứ tư, về cơ chế phân chia quyền lực trong công ty. Có thể nói trong CTLHD không có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các thành viên công ty (luật sư); hơn nữa, sự phân chia quyền lực trong mô hình kinh doanh này không đơn thuần chỉ dựa vào phần vốn góp vào của các thành viên vào công ty mà còn dựa vào tư cách pháp lý của thành viên. CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL do ít nhất hai thành viên (các luật sư) đồng thuận thành lập[2]. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty.

Thực tiễn tại Thừa Thiên Huế

Hoạt động của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư, trong đó có CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt được những kết quả nhất định trên nhiều phương diện khác nhau.

Thời gian qua số lượng đội ngũ luật sư tham gia Đoàn luật sư tỉnh ngày càng tăng, chất lượng hành nghề của luật sư cũng được nâng cao (năm 2010 có 20 luật sư, đến tháng 11/2019 có 64 luật sư), về trình độ chuyên môn có 07 thạc sĩ luật và 01 luật sư đang làm nghiên cứu sinh. Hầu hết các luật sư có bề dày kinh nghiệm, được rèn luyện kỹ năng, tích lũy kinh nghiệm thực tế, khẳng định được trình độ và bản lĩnh của mình (14 luật sư trước đây đã từng công tác tại các ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Công an), số luật sư trẻ thể hiện sự nhanh nhạy, sáng tạo trong nghề nghiệp, một số luật sư tiếp cận và hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế như xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, tư vấn về hợp tác đầu tư có yếu tố nước ngoài, tham gia cùng các luật sư nước ngoài trong các vụ kiện về kinh doanh thương mại ở Hòa Kỳ hoặc các vụ việc tố tụng trong nước có yếu tố nước ngoài liên quan đến các đương sự từ Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore,… Số lượng tổ chức hành nghề luật sư phát triển nhanh (năm 2010 có 08 tổ chức, đến năm 2019 có 27 tổ chức. Trong đó 23 tổ chức đang hoạt động, 04 tổ chức tạm ngừng hoạt động). Có 26/27 tổ chức hành nghề luật sư có trụ sở tại thành phố Huế là nơi có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển trên địa bàn tỉnh, chỉ có 01 tổ chức có trụ sở tại thị xã Hương Thủy (các huyện, thị xã còn lại không có tổ chức hành nghề luật sư).

Từ năm 2011 đến nay, các luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh đã thực hiện được  5.539 vụ việc gồm: tham gia tố tụng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các lĩnh vực: hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, hành chính, tư vấn pháp luật về kinh doanh thương mại,…  Việc tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội, các cá nhân được thực hiện một cách thương xuyên và có hiệu quả. Tư vấn và trợ giúp pháp lý cho 6.856 trường hợp, trong đó có 1.473 trường hợp miễn phí cho các đối tượng chính sách và người nghèo, tham gia với các tổ chức cơ sở hòa giải 101 trường hợp, tư vấn và bàn luận trên sóng TRT 96 trường hợp, tham gia chương trình công lý mở trên sóng VTV8 45 trường hợp[3]. Tuy nhiên, Số lượng luật sư đã tham gia cùng các luật sư nước ngoài trong các vụ kiện về kinh doanh thương mại hoặc các vụ việc tố tụng trong nước có yếu tố nước ngoài còn quá ít.

Vướng mắc cần khắc phục

Qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tại tỉnh Thừa Thiên Huế nhận thấy bộc lộ những khó khắc, vướng mắc cần phải khắc phục.

Một là, về đội ngũ luật sư. Tuy có sự gia tăng nhanh chóng số lượng luật sư, nhưng chất lượng hoạt động hành nghề luật sư chưa đồng đều, chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, nhất là trong hoạt động liên quan hội nhập kinh tế quốc tế. Các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, trong đó có CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL đa số có quy mô hoạt động nhỏ, chủ yếu hoạt động dưới hình thức văn phòng luật sư, chỉ có từ 1 -2 luật sư nên tính chuyên nghiệp hóa còn hạn chế; một số tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam chưa nghiêm túc tuân thủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật luật sư.

Hai là, chất lượng và ý thức trách nhiệm của đội ngũ luật sư chưa cao. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Khi tham gia tố tụng trong vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, một số luật sư bào chữa còn có tâm lý bào chữa qua loa, chưa thực sự đầu tư thời gian, công sức và chuyên môn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa… Số lượng luật sư thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đủ khả năng tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp quốc tế, luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại còn ít.

Ba là, việc luật sư cá nhân và luật sư thành viên CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tham gia vào các vụ án do Tòa chỉ định, đặc biệt các vụ án liên quan đến vị thành viên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động tham gia trợ giúp pháp lý mới tập trung vào trợ giúp pháp lý lưu động, tư vấn soạn thảo đơn từ mà chưa ưu tiên, tập trung vào trợ giúp pháp lý trong án vụ án hình sự cho người nghèo và đối tượng chính sách.

Bốn là, trong quá trình hành nghề, luật sư nói chung và luật sư thành viên CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, đặc biệt tham gia giai đoạn điều tra trong các vụ án hình sự. Mặc dù các quy định của pháp luật về tố tụng đã tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho luật sư tham gia vào các quy trình tố tụng, tuy nhiên, một số cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nghiêm trong việc tổ chức thực thi pháp luật và tự mình thực thi pháp luật… Quá trình tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, nhất là việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa và sự tham gia của luật sư trong giai đoạn điều tra.

Năm là, Ngân sách của tỉnh hiện nay chỉ hỗ trợ cho một số hoạt động của Đoàn Luật sư như: hỗ trợ tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng pháp luật cho luật sư; hỗ trợ Đoàn luật sư trong công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật. Kinh phí hoạt động của Đoàn luật sư chủ yếu là nguồn thu đoàn phí từ các luật sư thành viên nên còn hạn chế.

Bên cạnh đó, việc thực hiện Luật luật sư và Chiến lược phát triển nghề luật sư chưa đạt được nhiều kết quả; công tác quản lý nhà nước mới tập trung vào quản lý hành chính mà chưa xây dựng được những chính sách mang tính đột phá trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển nghề luật sư tại địa phương.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế, vấn đề hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL là một yêu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đó cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra. Với mục đích nhằm phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, phát huy vai trò của luật sư trong hoạt động của công ty, cần có những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ cải cách tư pháp./.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Cục Bổ trợ tư pháp (BTP) (2014), Báo cáo của Cục Bổ trợ tư pháp (BTP) tại Hội nghị triển khai Luật luật sư và Chiến lược phát triển nghề LS đến năm 2020, tháng 10/2014.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

3. Lê Minh Toàn (Chủ biên) (2002), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tr. 313

4. Nguyễn Văn Bốn (2019), luận văn tiễn sĩ luật học “Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội

5. Nguyễn Minh Đức (2018), Công ty luật hợp danh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.

6. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên) (2017), Luật Kinh tế chuyên khảo, Nxb. Lao động, Hà Nội.

7. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

8. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

9. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

10. Quốc hội (2012), Luật Luật sư, Hà Nội.

11. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.

12. Trần Ngọc Dũng, Trần Ngọc Anh (2017), “Các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về công ty hợp danh và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), số 3/2017.

13. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (2019), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư tại tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2011 đến năm 2020”

14. Bùi Mến, Liên đoàn Luật sư Việt Nam: 10 năm một chặng đường https://baophapluat.vn/trong-nuoc/lien-doan-luat-su-viet-nam-10-nam-mot-chang-duong-474394.html cập nhật ngày 10/10/2019

15. Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ http://www.trungtamwto.vn/chuyen-de/57-cam-ket-gia-nhap-wto-cua-viet-nam-trong-linh-vuc-thuong-mai-dich-vu cập nhật ngày 23/12/2009

16. Quang Công, Huế: Hội Luật gia tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho hàng nghìn người https://www.nguoiduatin.vn/hue-hoi-luat-gia-tu-van-va-ho-tro-phap-ly-cho-hang-nghin-nguoi-a457890.html cập nhật ngày 27/11/2019

[1] Lê Minh Toàn (Chủ biên) (2002), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tr. 313

[2] Quốc hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội, Điều 34.

[3] Báo cáo của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về Kết quả thực hiện Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư tại tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2011 đến 2020”

TRẦN PHÚ TÀI (Phòng TCHCTTTL Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh - TTH)