.jpg)
Vướng mắc trong việc xác định tội danh với hành vi sử dụng vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, dao có tính chất sát thương cao và đề xuất giải pháp nhằm áp dụng thống nhất pháp luật
Kể từ ngày 01/01/2025, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) số 42/2024/QH15, chính thức có hiệu lực, trong đó quy định rõ về việc coi các loại vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, dao có tính sát thương cao là "vũ khí quân dụng" nếu sử dụng nhằm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật.
Khi nghiên cứu quy định của Luật về nội dung này còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, có thể gây vướng mắc trong thực tiễn định tội danh, đặc biệt là khi xác định tình tiết định khung, định tội hoặc xử lý hành vi độc lập về tội “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” khi xử lý cùng với các tội “cố ý gây thương tích”, “giết người”. Bài viết này phân tích, làm rõ một số tồn tại, bất cập và nêu đề xuất giải pháp nhằm áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
1. Quy định pháp luật mới về vũ khí quân dụng và vấn đề phát sinh
Tại điểm d khoản 2, điểm a khoản 4, điểm a khoản 5 và khoản 6 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 quy định:
“2. Vũ khí quân dụng bao gồm:
...
d) Súng săn, vũ khí quy định tại điểm a khoản 4, vũ khí quy định tại điểm a khoản 5 và dao có tính sát thương cao quy định tại khoản 6 Điều này sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật;
.......
a) Kiếm, giáo, mác, thương, dao găm, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành;
…
5. Vũ khí thể thao bao gồm:
…
6. Dao có tính sát thương cao là dao sắc, dao nhọn thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành.”.
So với các văn bản pháp luật trước đây, quy định này đánh dấu một thay đổi căn bản về việc "định danh" công cụ được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Cụ thể, trước đây, trong Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, sửa đổi, bổ sung năm 2019 nhà làm luật quy định về vũ khí quân dụng theo hướng liệt kê các loại vũ khí quân dụng (khoản 2 Điều 3) mà không gắn mục đích “sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật”. Đây là nội dung mới trong Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024. Tuy nhiên, khi nghiên cứu quy định tại Điều luật trên và thực tiễn áp dụng cho thấy còn tồn tại một số vướng mắc trong áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, đặc biệt là việc xác định: Có hay không việc xử lý hành vi độc lập là "sử dụng trái phép vũ khí quân dụng" đối với các đối tượng sử dụng dao có tính sát thương cao, vũ khí thể thao, vũ khí thô sơ để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc giết người? Chúng tôi xin nêu và phân tích dưới đây.
2. Một số hạn chế, vướng mắc
2.1. Đối với tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015
Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, .... hung khí nguy hiểm....;”
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án, thì dao có tính sát thương cao được xem là hung khí nguy hiểm, ngoài ra theo Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì trong trường hợp này, dao có tính sát thương cao và vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao bị xem là vũ khí quân dụng nếu được sử dụng để cố ý gây thương tích. Vấn đề đặt ra là, trong trường hợp xác định là vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc dao có tính sát thương cao dùng để thực hiện hành vi gây thương tích là “vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 2 Luật Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 thì tình tiết “Dùng vũ khí,.... hung khí nguy hiểm” làm tình tiết định tội cho tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 hay làm tình tiết định tội cho tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 hay cho cả hai tội danh?
Nếu xử lý theo hướng song song, sẽ dẫn đến việc chồng lấn cấu thành tội phạm, vì hành vi sử dụng các công cụ trên để phạm tội của đối tượng không xâm phạm khách thể về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng. Cụ thể, khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP ngày 9/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 304, Điều 305, Điều 306, Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật Hình sự (Nghị quyết số 03/2022) quy định: ““Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự là sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không có giấy phép hoặc không được phép của người hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm phát huy tác dụng của vũ khí, phương tiện đó. Ví dụ: Hành vi sử dụng súng quân dụng là lên đạn, bóp cò; hành vi sử dụng lựu đạn là rút chốt, giật nụ xùy.”. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 03/2022 quy định:
“Người nào thực hiện hành vi quy định tại các điều 304, 305, 306 của Bộ luật Hình sự với mục đích là chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện một tội phạm tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật Hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả 02 tội.”.
Như vậy, đồng thời bị xử lý cả về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” và tội “Cố ý gây thương tích”. Ngược lại, nếu chỉ xử lý theo Điều 134 mà bỏ qua Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì vấn đề “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” của đối tượng theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024sẽ được xử lý như thế nào?
Ngoài ra, nếu trường hợp, hành vi của đối tượng chỉ phạm vào khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự và bị hại không yêu cầu khởi tố thì có khởi tố bị can đối với đối tượng về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” hay không?
2.2. Đối với tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015
Giả định, nếu bỏ qua vấn đề “chồng lấn cấu thành tội phạm” như phân tích trên đây, trong trường hợp đối tượng dùng vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc dao có tính sát thương cao để thực hiện hành vi giết người là “vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024, thì sẽ khởi tố hai tội: “Giết người” và tội: “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; vậy, nếu có hậu quả chết người xảy ra, ngoài việc sử dụng tình tiết hậu quả chết người làm căn cứ định tội cho tội danh “giết người” thì hậu quả này có được sử dụng làm căn cứ định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự cho tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 hay không? Nếu sử dụng rõ ràng sẽ dẫn đến trùng lắp hậu quả, vì hậu quả chết người đã được tính đến trong tội giết người, không thể tiếp tục coi hậu quả đó là tình tiết định khung tăng nặng trong một tội khác.
Những vướng mắc như nêu trên sẽ dẫn đến tình trạng lúng túng, không thống nhất trong áp dụng pháp luật, và dễ dẫn đến oan sai trong xử lý đối với người phạm tội. Để việc áp dụng quy định của luật được thống nhất, chính xác, khách quan, hạn chế thấp nhất sự lúng túng, vướng mắc của chủ thể áp dụng pháp luật, chúng tôi đề xuất giải pháp, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội danh nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố cụng cần xác định mục đích sử dụng công cụ: Nếu công cụ chỉ là phương tiện để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích, giết người… thì không nên tách ra xử lý thêm về hành vi "sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
Kết luận
Sự thay đổi về mặt pháp lý trong định nghĩa “vũ khí quân dụng” đang đặt ra nhiều thách thức trong việc định tội danh. Việc xử lý hành vi của đối tượng cần đặt đúng bản chất, tránh hình sự hóa thái quá hoặc xử lý chồng lấn. Để bảo đảm quyền con người và nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần sớm có hướng dẫn thống nhất từ Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để xác định rõ: Khi nào thì hành vi của đối tượng cấu thành tội độc lập về “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; không xử lý đối tượng đồng thời về hai tội khi hành vi chỉ nhằm một mục đích xâm phạm một khách thể: tính mạng, sức khỏe con người.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, sửa đổi, bổ sung năm 2019
2. Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024
3. Bộ luật Hình sự năm 2015
4. Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP ngày 9/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 304, Điều 305, Điều 306, Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật Hình sự.
Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chuyển đổi số trong nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án tại Tòa án
-
Giới thiệu chuyên trang đặc biệt và Cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử 80 năm Tòa án nhân dân”
-
Chỉ xử lý hình sự đối với người gửi từ 02 thiết bị trở lên
-
Bình Phước: Tìm nhân chứng là hành khách trên xe khách mang biển kiểm soát 47B–022.22
-
Trao đổi ý kiến về bài viết “bên đặt cọc hay bên nhận đặt cọc có lỗi?”
Bình luận