Xác định luật áp dụng liên quan đến tài sản và quyền sở hữu

Bài viết giới thiệu về một số khác biệt trong vấn đề định danh tài sản theo luật một số nước cũng như nguyên tắc chủ đạo để xác định luật áp dụng để định danh tài sản và xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài, trên cơ sở so sánh với luật Việt Nam.

Quy định về phân loại tài sản và quyền đối với tài sản được ghi nhận tại Điều 677 và 678 BLDS 2015. Về cơ bản, tài sản và quyền đối với tài sản là đối tượng chính và là điểm nối trung tâm của các quan hệ sở hữu (giao dịch, hợp đồng, thừa kế…). Việc xác định chính xác những nội dung này đóng vai trò quan trọng để giải quyết những xung đột, mâu thuẫn phát sinh từ quan hệ tài sản, đặc biệt là trong các quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài. Điều 663 BLDS 2015 quy định quan hệ có yếu tố nước ngoài là quan hệ mà có thể có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài), khi mà pháp luật của các quốc gia quy định về cùng một vấn đề có nhiều khác biệt.

Hai vấn đề cơ bản cần được giải quyết trước tiên khi giải quyết bất kỳ một tranh chấp về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài chính là “định danh tài sản” và “nội dung về quyền sở hữu và quyền khác liên quan đến tài sản”. Ngay cả đối với hai vấn đề cơ bản này, pháp luật của các quốc gia cũng không quy định giống nhau hoàn toàn và việc xác định pháp luật của quốc gia nào được áp dụng trong trường hợp này là tiên quyết và cũng không kém phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan.

1. Định danh tài sản

Nhìn chung, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận có hai loại tài sản chủ đạo là động sản và bất động sản. Tuy nhiên, thế nào là động sản, thế nào là bất động sản, quy định pháp luật của các nước cũng không hoàn toàn thống nhất.

Theo Điều 107 BLDS 2015 của Việt Nam, bất động sản bao gồm đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng và tài sản khác theo quy định của pháp luật. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.

Pháp luật của Pháp cũng có quy định khác biệt liên quan đến việc xác định động sản và bất động sản. Chẳng hạn ở Pháp, quặng mỏ là động sản nhưng khi chưa khai thác thì quặng mỏ này là bất động sản[1]. Ngoài ra, Điều 520 BLDS Pháp cũng có quy định rằng “mùa màng chưa gặt, trái cây chưa bứt khỏi cây là “bất động sản”, nếu bứt khỏi cây được coi là “động sản””[2]. Pháp luật dân sự Việt Nam có hai luồng quan điểm khác nhau, theo một số tác giả cho rằng đây là bất động sản do công dụng, một số tác giả thì cho rằng đây là động sản do bản chất[3]. Từ những khác biệt trong cách hiểu bất động sản và động sản giữa các quốc gia như vậy, việc phát sinh xung đột liên quan đến định danh tài sản hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt trong các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài.

Để giải quyết vấn đề định danh tài sản trong trường hợp có xung đột pháp luật, trước hết cần giải quyết vấn đề lựa chọn luật áp dụng.

Một nguyên tắc phổ biến và được hầu hết các quốc gia áp dụng để giải quyết xung đột liên quan đến định danh tài sản trong các tranh chấp tài sản có yếu tố nước ngoài chính là “áp dụng pháp luật của quốc gia nơi có tài sản (lex rei sitea). Cụ thể, Điều 3 của BLDS Pháp thì nguyên tắc luật nơi có tài sản được áp dụng để điều chỉnh quan hệ sở hữu đối với động sản và bất động sản. Điều 100 Luật tư pháp quốc tế Thụy Sĩ 1987 quy định: “Vấn đề sở hữu tài sản là động sản và bất động sản sẽ tuân theo luật nơi có tài sản”.

Việt Nam cũng không ngoại lệ,  Điều 677 BLDS 2015 ghi nhận “việc phân loại tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”. Đây là điểm mới của BLDS 2015 khi quy định này được tách thành một điều luật độc lập tách ra từ điều 766 BLDS 2005. Việc tách thành điều luật mới trong BLDS 2015 nhằm bao quát được hết tất cả các trường hợp cần phân loại tài sản[4].

Bên cạnh BLDS, trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước, nguyên tắc này cũng được ghi nhận. Cụ thể như tại Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Liên Bang Nga (Điều 35)[5], với Cu Ba (khoản 3 Điều 34)[6], với Hungari (khoản 3 Điều 43)[7] với Bungari (khoản 3 Điều 33)[8].

Qua đó cho thấy, dù không phải là hệ thuộc luật duy nhất, tuy nhiên việc quy định “áp dụng luật của nước nơi có tài sản” để xác định động sản hay bất động sản dường như là hệ thuộc luật phổ biến nhất để giải quyết loại xung đột này.

2. Quyền sở hữu và quyền khác với tài sản

Nguyên tắc cơ bản - áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản. Đa số các quốc gia trên thế giới như Pháp, Đức, Hà Lan, Anh, Mỹ đều thừa nhận quy tắc luật của quốc gia nơi có tài sản để giải quyết để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến tài sản và quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Đây là nguyên tắc cơ bản và lâu đời nhất trong tư pháp quốc tế[9].

Theo khoản 1 Điều 24 Luật về tư pháp quốc tế của Ba Lan thì “quyền sở hữu và các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi có tài sản”, theo khoản 2 cũng chỉ rõ: “Sự phát sinh và chấm dứt quyền sở hữu cũng như sự phát sinh, chuyển dịch hoặc chấm dứt các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có tài sản vào thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh các hậu quả pháp lý trên”.

Tương tự như các quốc gia khác, Việt Nam cũng quy định về việc áp dụng luật nơi có tài sản để làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Quy tắc này được cụ thể hóa tại khoản 1 Điều 678 BLDS 2015.

Cần lưu ý thêm rằng, khoản 1 Điều 678 BLDS 2015 đã được mở rộng phạm vi điều chỉnh nhằm phù hợp với khái niệm quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Ngoài quyền sở hữu tại BLDS 2005, BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi các quyền khác đối với tài sản, bao gồm: quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề và quyền bề mặt. Khoản 1 Điều 678 BLDS 2015 cũng quy định việc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản trong việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt “các quyền khác” đối với tài sản. BLDS 2005 trước đó chưa đề cập đến “các quyền khác” này.

Nguyên tắc áp dụng luật nơi có tài sản khi giải quyết mối quan hệ về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản cũng được quy định tại các Hiệp định tương tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước. Cụ thể, khoản 1 Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Bêlarút: “Quan hệ pháp lý về bất động sản được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi có bất động sản đó”[10].

Về cơ bản, nguyên tắc luật nơi có tài sản được nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng vì nó thể hiện được sự tôn trọng với đối với quốc gia nơi tồn tại tài sản và hơn hết là chủ quyền lãnh thổ của quốc gia đó. Trên cơ sở quyền sơ hữu là nền tảng cơ bản của nền kinh tế một quốc gia, các nước thường có hệ thống pháp luật với các quy phạm riêng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu nhằm đảm bảo trật tự quốc gia. Vì lẽ đó, các quốc gia thường e ngại việc áp dụng pháp luật của một quốc gia khác để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản tồn tại thuộc lãnh thổ mình. Việc quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản cho phép các quốc gia bảo vệ được nền kinh tế, chủ quyền quốc gia của mình. Đặc biệt trong các trường hợp liên quan đến bất động sản, là một bộ phận quan trọng cấu thành lãnh thổ của một quốc gia, thì việc áp dụng pháp luật của một quốc gia khác đối với một phần lãnh thổ quốc gia mình dường như đã vi phạm chủ quyền quốc gia.

Ngoại lệ - áp dụng nguyên tắc luật người mua. Theo pháp luật các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng như các quyền khác về tài sản đang trên đường vận chuyển sẽ được điều chỉnh bởi một trong những hệ thuộc sau đây: - Pháp luật nước nơi gửi tài sản đi (Legi loci expeditionis) - Pháp luật nơi nhận tài sản (Legi loci destinationis) - Pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch (Lex banderae) - Pháp luật của nước nơi có trụ sở của tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Legi fori) - Pháp luật của nước do các bên lựa chọn (Lex vulontatis).

Theo khoản 2 Điều 678 BLDS năm 2015, luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên ưu tiên thỏa thuận và chỉ khi nào không đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận vô hiệu thì mới áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản được chuyển đến tạm gọi luật người mua.

Cách thức quy định như trên cũng tương tự pháp luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[11], tại Điều 38 của Đạo luật về Luật áp dụng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài năm 2010 của quốc gia này quy định rằng: “Đối với tranh chấp về quyền sở hữu đối với động sản đang trên đường vận chuyển, các bên có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với việc xác định quyền đối với động sản trên đường vận chuyển. Trường hợp không có thỏa thuận, luật của nước nơi chuyển đến được áp dụng”.

Việc đưa quy định áp dụng luật người mua vào vị trí kém ưu tiên hơn xuất phát từ khó khăn trong việc xác định vị trí tồn tại của động sản trong quá trình dịch chuyển. Đây cũng là quy định khá đặc thù của BLDS, được xây dựng dựa trên cơ sở kinh tế của Việt Nam. Với đặc thù là một nước có nền kinh tế nhập siêu, tức việc nhập khẩu hàng hóa cao hơn việc xuất khẩu hàng hóa, việc áp dụng luật người bán (theo đa số các nước có nền kinh tế phát triển) sẽ là điều khoản bất lợi cho cá nhân, tổ chức trong nước. Khoản 2 Điều 678 có thể được xem là một kỹ thuật lập pháp có lợi cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh của Việt Nam.

Kết luận

Những phân tích trên cho thấy, pháp luật Việt Nam hiện nay quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản để giải quyết mối quan hệ liên quan đến việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Quy định này, bên cạnh việc hài hòa và nhất quán với pháp luật hầu hết các quốc gia và hợp lý trên cơ sở bảo vệ chủ quyền quốc gia trong trường hợp tài sản tranh chấp là bất động sản và quan hệ sở hữu liên quan đến bất động sản, nhưng vô tình lại cản trở quyền tự do thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết xung đột của mình. Vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng, để bảo đảm đồng thời quyền tự do của các bên trong việc lựa chọn luật áp dụng và trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, cơ quan lập pháp nên chăng cân nhắc việc chỉ áp dụng nguyên tắc “luật nơi có tài sản chỉ với tài sản” để giải quyết mối quan hệ về quyền sở hữu liên quan đến bất động sản, và dành cho các bên quyền thỏa thuận tự quyết định luật áp dụng trong trường hợp tài sản là động sản. Cách thức quy định như vậy vừa đảm bảo không ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia đối với bất động sản, lại đồng thời trao cho các đương sự quyền tự quyết liên quan đến việc chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp của mình. Bên cạnh đó, việc quy định luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài nói riêng và các quan hệ có yếu tố nước ngoài khác nói chung nên được quy định cụ thể trong một văn bản pháp luật thống nhất thay vì nằm rải rác trong các văn bản pháp luật như hiện tại. Việc ban hành một văn bản chung nhất để điều chỉnh các mối quan hệ này sẽ giúp các bên có cơ sở rõ ràng để bảo vệ quyền lợi của mình, thay vì phải hoang mang tìm kiếm trong một hệ thống văn bản pháp luật quá đồ sộ như hiện nay. Điều đó sẽ giúp bảo đảm việc áp dụng thống nhất và chính xác pháp luật từ phía các bên liên quan và cả các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan giải quyết tranh chấp.

 

TS. NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH (Khoa Luật, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh)

Tài liệu tham khảo

1. Đinh Trung Tụng, Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự (tài liệu tập huấn), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2017.

2. Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, NXB. CAND, 2018.

3. Đỗ Thị Mai Hạnh, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức, TP. HCM, 2019.

4. Jean Pelletier (1957), Les immeubles par nature et par destination, Les cahiers de droit, vol. 3, no 1.

5. Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hòa Bê-la-rút.

6. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga.

7. Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cuba.

8. Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hunggari.

9. Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Bungari.

10. Nguyễn Đức Việt, Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản ở Việt Nam hiện nay, https://danchuphapluat.vn/giai-quyet-xung-dot-phap-luat-ve-quyen-so-huu-va-quyen-khac-doi-voi-tai-san-o-viet-nam-hien-nay.

11. Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. ĐHQG TP.HCM, 2018.

12. Phạm Thị Hồng Đào, Quyền lựa chọn pháp luật của các chủ thể có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2015, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2160.

13. Phạm Thị Hồng Mỵ, Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế của Việt Nam và một số quốc gia, https://danchuphapluat.vn/van-de-ap-dung-phap-luat-nuoc-ngoai-trong-tu-phap-quoc-te-cua-viet-nam-va-mot-so-quoc-gia.


[1] Jean Pelletier, “Les immeubles par nature et par destination”, Les cahiers de droit, vol. 3, no 1, 1957.

[2] Phạm Thị Hồng Đào, Quyền lựa chọn pháp luật của các chủ thể có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2015, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2160, truy cập ngày 04/01/2025.

[3] Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. ĐHQG TP.HCM, 2018, tr.234; Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. CAND, 2018, tr.195.

[4] Đinh Trung Tụng, Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự (tài liệu tập huấn), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2017, tr.250.

[5] Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga, ký tại Mát-xcơ-va ngày 25/8/1988, có hiệu lực từ ngày 27/8/2012.

[6] Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cuba.

[7] Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hunggari.

[8] Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Bungari.

[9] Đỗ Thị Mai Hạnh, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Hồng Đức, TP. HCM, 2019, tr.382.

[10] Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hòa Bê-la-rút.

[11] Nguyễn Đức Việt, Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản ở Việt Nam hiện nay, https://danchuphapluat.vn/giai-quyet-xung-dot-phap-luat-ve-quyen-so-huu-va-quyen-khac-doi-voi-tai-san-o-viet-nam-hien-nay, truy cập ngày 21/5/2025; Phạm Thị Hồng Mỵ, Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế của Việt Nam và một số quốc gia, https://danchuphapluat.vn/van-de-ap-dung-phap-luat-nuoc-ngoai-trong-tu-phap-quoc-te-cua-viet-nam-va-mot-so-quoc-gia, truy cập ngày 21/5/2025.

Ảnh minh họa: Phan Anh.