Xác định tội danh của Lê Hoài D

Sau khi cả bọn hành hung khiến B bị ngất xỉu thì D mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của B. Trước sự chứng kiến của bà mẹ B, D công khai lấy của B chiếc điện thoại di động và 2.000.000 đ.  D phạm tội gì?

Xuất phát từ việc mâu thuẫn giữa Trần Văn A và Trịnh Quốc B , khoảng 23 giờ 15 phút ngày 11/6/2020 A rủ các đối tượng Bùi Quang H, Phan Văn N, Lê Hoài D đến nhà B để đánh B, tất cả đều đồng ý. A lấy cái rựa cùng với N tìm nhặt mỗi người một khúc cây ở ven đường rồi cả hai đi vào nhà B nấp phục ngoài cửa chính chờ B ra đánh. B vừa bước đến cửa đi vào nhà thì bị D dùng cây đánh một cái hướng từ trên xuống dưới, B lùi lại tránh thì cây đập trúng cánh cửa. A từ ngoài cửa xông vào nhà, tay phải cầm rựa, tay trái cầm khúc cây đưa lên đánh B một cái hướng từ trên xuống dưới. Trong lúc chạy B bị vấp chân N nên ngã nằm sấp xuống nền nhà. N, D và H dùng cây đánh B một cái vào lưng. Nghe tiếng ồn ào, bà M là mẹ của B đang ở phía sau nhà chạy lên chụp lấy cái rựa từ tay A và van xin đừng đánh B nữa. Khi ra đến sân A, N và H vứt lại khúc cây tại sân nhà B rồi ra ngoài đường.

Sau khi A, N và H đi ra ngoài đường, D đá vào người B một cái nhưng B không có phản ứng gì do đã bị ngất. D nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của B nên lật người của B nằm ngửa rồi lục túi quần của B lấy 01 cái điện thoại (giá trị 8.000.000 đồng) và 2.000.000 đồng bỏ vào túi quần (bà M không dám phản ứng gì vì sợ bị đánh). Sau khi chiếm đoạt điện thoại của B, D cầm rựa đi ra ngoài đường rồi tất cả đi về.

Hành vi nêu trên của Trần Văn A, Lê Hoài D, Bùi Quang H, Phan Văn N dùng rựa, cây đánh Trịnh Quốc B gây thương tích 11%  cấu thành tội Cố ý gây thương tích quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS.

Riêng hành vi của đối tượng Lê Hoài D chiếm đoạt điện thoại di động và 2.000.000 đồng của Trịnh Quốc B thì có nhiều quan điểm khác nhau về việc định tội danh.

Quan điểm thứ nhất: Cho rằng hành vi chiếm đoạt cái điện thoại của Lê Hoài D cấu thành tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại Điều 172 BLHS, bỡi lẽ: Mục đích ban đầu của các đối tượng đến nhà Trịnh Quốc B là để đánh B do B có mâu thuẫn với A trước đó chứ không hề có ý định chiếm đoạt tài sản của B hoặc của bất kỳ ai. Sau khi đánh B nằm ngất xỉu dưới nền nhà rồi bỏ ra ngoài sân nhà B để chuẩn bị đi về.

Kể từ thời điểm D nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của B thì D hoàn toàn không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho B lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hậu quả B nằm ngất xỉu, mất khả năng chống cự để bảo vệ tài sản là do hậu quả của hành vi của các đối tượng đánh trước đó chứ không phải do D gây ra sau khi nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.

Khi lấy điện thoại và tiền từ trong túi quần của B, D thực hiện hành vi một cách công khai, không có dùng bất kỳ thủ đoạn nào, không cần che giấu hành vi phạm tội, D lấy điện thoại trước mặt mẹ của B rồi ung dung rời khỏi nhà của B. Đây là các dấu hiệu đặc trưng của mặt chủ quan, mặt khách quan của cấu thành tội phạm Công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Thời điểm D nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản thì lúc này B đã ngất xỉu, hoàn toàn không đủ khả năng để bảo vệ tài sản của mình do hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích trước đó chứ không phải là do D gây ra sau khi nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đây là dấu hiệu không phù hợp với các yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản. Tội Cướp tài sản thì người phạm tội phát sinh ý thức chiếm đoạt tài sản phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Quan điểm thứ hai: (Cũng là quan điểm của tác giả) hành vi chiếm đoạt cái điện thoại của Lê Hoài D cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 BLHS, bởi lẽ: Mặc dù mục đích ban đầu của Lê Hoài D cùng đồng bọn đến nhà Trịnh Quốc B là để đánh B chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản của B. Tuy nhiên sau khi dùng vũ lực tấn công B làm B bị ngất xỉu thì D nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của B và lục túi quần của B lấy một cái điện thoại và tiền. Hậu quả B bị ngất xỉu không còn khả năng bảo vệ được tài sản khi D chiếm đoạt là do D cùng đồng bọn đánh B trước đó. Đây là dấu hiệu phù hợp với mặt khách quan của tội Cướp tài sản.

Ở tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản thì việc bị hại không có khả năng bảo vệ được tài sản là do điều kiện khách quan mang lại. Đối chiếu với vụ án trên, việc bị hại Trịnh Quốc B không còn khả năng bảo vệ được tài sản khi Lê Hoài D chiếm đoạt là do D cùng đồng bọn có hành vi đánh B trước đó chứ không phải điều kiện khách quan mang lại. Đây là dấu hiệu không phù hợp trong cấu thành tội phạm của tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhiều địa phương xử lý hành vi nêu trên về tội Cướp tài sản.

Rất mong nhận được sự trao đổi của các bạn đọc về bài viết trên.

 

Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế  xét xử vụ án Cướp tài sản - Ảnh: Cái Vĩnh Tuấn Anh

 

 

ĐOÀN PHƯỚC HÒA (Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7)