Các đại biểu Quốc hội đều thể hiện sự nhất trí cao về sự cần thiết sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

Buổi chiều 22/11, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội họp phiên toàn thể ở hội trường, thảo luận về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp.

Cần thiết phải sửa đổi một cách toàn diện

Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (Bến Tre) quan tâm đến nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án nhân dân, theo đó tại điểm b khoản 2 Điều 3 của dự thảo luật quy định: khi thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết xét xử vi phạm hành chính theo quy định của Luật và tại Điều 26 quy định cụ thể nội dung này. Quy định như dự thảo luật, đại biểu cho rằng sẽ gây áp lực rất lớn cho Tòa án nhân dân các cấp, vì hiện nay số lượng vụ án vụ việc quá nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, trong khi biên chế nguồn lực của ngành Tòa án còn hạn chế. 

Đại biểu đề nghị xem xét lại quy định này cho phù hợp với thực tế khả năng triển khai thực hiện của ngành Tòa án. Hơn nữa, nếu bổ sung nhiệm vụ quyền hạn cho tòa án giải quyết xét xử vi phạm hành chính cần sửa trước các cái nội dung này trong các luật liên quan như: Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Tố tụng hành chính…

Về việc đổi mới TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện theo thẩm quyền xét xử quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà (Bắc Giang) nhận thấy, quy định này nhằm thể chế hóa nhiệm vụ “Bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đồng thời cũng phù hợp với Điều 102 Hiến pháp 2013.

 

Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà 

Quy định này sẽ góp phần mạnh mẽ vào việc khắc phục những hạn chế trong thực tiễn xét xử của Tòa án, đặc biệt là tình trạng cho rằng Tòa án là một cơ quan thuộc địa phương, gây khó khăn cho việc xử lý, giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tòa án.

Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà cho rằng, việc đổi mới tổ chức như vậy là sự khẳng định rõ nét nguyên tắc các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, góp phần thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và khẳng định địa vị pháp lý của Toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, việc đổi mới này tuy có thể phát sinh chi phí do phải điều chỉnh tên gọi, thay đổi con dấu nhưng vì lợi ích lâu dài, vì sự phát triển của hệ thống Tòa án và sự thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra, theo đại biểu, cần thiết phải thực hiện bước đi đầu tiên trong việc đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, hình thành tư duy về Tòa án được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử chứ không theo cấp hành chính; làm cơ sở để có những bước đổi mới tiếp theo về sau này; bảo đảm tốt hơn độc lập xét xử và khẳng định địa vị pháp lý của Toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Do đó, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà tán thành với việc đổi mới TAND cấp tỉnh, cấp huyện theo thẩm quyền xét xử như đã quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.

Đại biểu Lê Xuân Thân (Khánh Hòa) cho rằng, độc lập trong xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính mới đảm bảo độc lập, khách quan. Tuy nhiên, dự thảo luật cần quy định cụ thể hơn về nội dung này. Đại biểu nhấn mạnh, việc điều chỉnh tên sơ thẩm và phúc thẩm thay cho cấp huyện, cấp tỉnh là một nội dung khó và thực hiện Nghị quyết số 49 năm 2005 của Bộ Chính trị và mới đây nhất là Nghị quyết 27 của Trung ương Đảng. Đại biểu cho rằng, việc điều chỉnh nhằm đảm bảo độc lập về xét xử theo thẩm quyền của cơ quan tòa án, không phụ thuộc vào địa giới hành chính, có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh, công minh của tòa án, mới thực hiện được nhiệm vụ của Hiến pháp giao cho Tòa án là bảo vệ công lý.

 


 

Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình dự phiên thảo luận

Theo đại biểu, Ban soạn thảo nên đưa vào các nội dung một cách cụ thể hơn, đó là sửa thẩm quyền của Tòa án trong các luật tố tụng dân sự, hành chính và hình sự. Riêng hình sự không sửa thẩm quyền của Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra. Đồng thời, lập Toà án sơ thẩm không theo địa giới hành chính trên cơ sở tổng kết, đánh giá và xem xét lại hệ thống của Tòa án cấp huyện hiện nay. Ngoài ra, tỉnh ủy, thành ủy thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án sơ thẩm; Tòa án nhân dân tối cao vẫn quản lý Tòa án địa phương về toàn bộ các công việc liên quan tới nhiệm vụ và vấn đề về tổ chức. 

Đại biểu cũng đề nghị bổ sung quy định theo hướng tập trung năng lực cho xét xử sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm; không phân biệt thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp mà chỉ là thẩm phán.

Quyền tư pháp

Góp ý về việc quy định Toà án thực hiện quyền tư pháp, đại biểu Nguyễn Thị Mai Thoa (Hải Dương) nhận thấy việc quy định cụ thể về nội hàm của quyền tư pháp mà Tòa án nhân dân thực hiện là cần thiết, nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về nội dung này và phân định rõ phạm vi quyền tư pháp Tòa án nhân dân thực hiện với quyền tư pháp các cơ quan khác trong hệ thống bộ máy nhà nước thực hiện. 

Tuy nhiên, đại biểu cho rằng cần quy định chặt chẽ, tránh dẫn đến những cách hiểu khác nhau; cần thể hiện rõ trong hệ thống tổ chức bộ máy của nhà nước không chỉ có Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp...

Đại biểu Khang Thị Mào (Yên Bái) bày tỏ thống nhất sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân để khắc phục những tồn tại, bất cập thời gian vừa qua như đã nêu trong Tờ trình của Tòa án nhân dân tối cao; bày tỏ đồng tình với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung như đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao và ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp. 

Quan tâm tới việc thực hiện quyền tư pháp của Toà án nhân dân, đại biểu thống nhất với việc bổ sung một số quy định về việc Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp để đảm bảo phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và thể chế hóa Nghị quyết số 27 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. 

 

Các đại biểu dự phiên thảo luận

Tuy nhiên, đại biểu cho rằng quyền tư pháp hiện nay được trao cho nhiều cơ quan khối tư pháp bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án. Vì vậy, quyền tư pháp của Tòa án quy định tại luật này nên điều chỉnh theo hướng là quyền tư pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ của Tòa án, chủ yếu là quyền tư pháp trong hoạt động xét xử và giải quyết các vụ án, vụ việc theo luật định....

Tòa án thu thập chứng cứ

Về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, đại biểu, đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi cho biết qua tổ chức lấy ý kiến góp ý còn hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất bày tỏ lo ngại việc giao cho người dân, đương sự tự thu thập và cung cấp chứng cứ như vậy sẽ rất khó thực hiện, bởi vì hiện nay ngay cả Tòa án thu thập chứng cứ còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều cơ quan, đơn vị chậm trễ trong việc cung cấp tài liệu hoặc cung cấp không đầy đủ, thậm chí không cung cấp mặc dù đã có văn bản yêu cầu của Tòa án. Nếu giao cho người dân trách nhiệm này thì sẽ còn gặp khó khăn hơn, từ đó, dẫn đến chậm trễ cho việc giải quyết, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện trình độ dân trí, sự am hiểu pháp luật của người dân như hiện nay thì nên giữ như quy định Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng cần khẳng định việc thu thập và cung cấp chứng cứ trong vụ án dân sự là trách nhiệm của các bên tham gia tố tụng, không phải là trách nhiệm của Tòa án, Tòa án của nhiều quốc gia trên thế giới đều thực hiện như vậy. Trước đây, trách nhiệm thu thập, cung cấp chứng cứ là của người tham gia vụ kiện, nhưng đến Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 lại quy định giao về cho Tòa án. Từ khi thực hiện nhiệm vụ này, cán bộ Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong việc đi xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, có trường hợp những người có liên quan chống đối, không cho thu thập chứng cứ, gây nguy hiểm cho sự an toàn của cán bộ, trong khi cán bộ của Tòa án đã phải giải quyết rất nhiều công việc tại Tòa. 

Hơn nữa, việc Tòa án thu thập chứng cứ rồi đánh giá chứng cứ sẽ không đảm bảo tính khách quan. Pháp luật cũng đã có quy định về việc các tổ chức, cơ quan, đơn vị có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ phục vụ xét xử, do đó, cần xử lý nghiêm các cơ quan chậm cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, chứ không lấy việc các cơ quan chậm hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ để làm lý do giao trách nhiệm này cho Tòa án, vì nhiệm vụ của Tòa án là xét xử, còn trách nhiệm này là của đương sự, muốn bảo vệ quyền lợi của mình, muốn thắng kiện thì phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ để chứng minh.

Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi khẳng định, đây là nội dung rất quan trọng và có tác động rất lớn trong lần sửa đổi này. Vì vậy đề nghị TANDTC có báo cáo đánh giá tác động, giải trình làm rõ thêm vấn đề này để ĐBQH và người dân có thể an tâm hơn.

Đại biểu Mai Văn Hải cho rằng, nếu chỉ yêu cầu, hướng dẫn đương sự cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến các vụ việc hành chính, dân sự thì đây là gánh nặng cho người dân trong việc thu thập tài liệu, nhất là các tài liệu liên quan đến các vụ việc hành chính, các tài liệu liên quan đến vụ việc dân sự. Nếu quy định chỉ yêu cầu đương sự cung cấp thông tin, tài liệu thì sẽ có nhiều vụ việc đương sự cung cấp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ, nhất là các tại liệu thuộc các cơ quan quản lý, dẫn đến kết quả xét xử sẽ bị sai lệch. Theo đại biểu Mai Văn Hải nên nghiên cứu quy định có trách nhiệm của đương sự và trách nhiệm của Toà án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ vụ việc hành chính, dân sự.

 

Đại biểu Nguyễn Hữu Chính

Quan tâm tới việc thu thập chứng cứ, đại biểu Nguyễn Hữu Chính (Hà Nội) nhận thấy, quy định tại dự thảo là nội dung hoàn toàn mới so với Luật hiện hành. Lý giải việc nhất trí với quy định này, đại biểu cho biết, việc Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ phù hợp với thực tiễn và xu thế hiện nay, phù hợp với các nguyên tắc pháp luật và các quy định về tố tụng hiện hành. 

Bên cạnh đó, tòa án thu thập tài liệu cho đương sự vô hình chung đã làm thay cho việc đương sự khiến họ trông chờ vào toán, lâu dài dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc. Việc đương sự tự thu thập, giao nộp chứng cứ phù hợp với thông lệ quốc tế hiện nay. Một số nước tiên tiến trên thế giới hiện nay đã đề cao vai trò bên nhân sự trong việc chứng minh sự việc. Việc thu thập, giao nộp chứng cứ của đương sự vẫn đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của họ.

Như vậy, dự thảo Luật, đương sự còn được tạo điều kiện thuận lợi hơn nhiều so với luật hiện hành. Tuy nhiên, theo luật hiện hành và thực tiễn hiện nay, có một số trường hợp khi Tòa án yêu cầu thu thập, giao nộp tài liệu liên quan đến một số cơ quan nhà nước và tổ chức còn gặp nhiều khó khăn. Nếu để đương sự tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến cơ quan, tổ chức này thì sẽ gặp khó khăn hơn nữa. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung Tòa án hỗ trợ đương sự trong việc xác minh, thu thập tài liệu do các cơ quan nhà nước, tổ chức đang lưu giữ, quản lý hồ sơ.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP Hồ Chí Minh) cho rằng, quy định Tòa án tham gia giải thích pháp luật, đã được quy định tại Điều 266 Bộ Luật Tố tụng dân sự khẳng định đây là nghĩa vụ của Tòa án. Do vậy, có ý kiến băn khoăn về quyền giải thích pháp luật, tuy nhiên quy định như dự thảo là phù hợp với pháp luật.

Giải thích pháp luật

Đại biểu Bùi Sỹ Hoàn  (Hải Dương) cho biết, về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, đại biểu bày tỏ đồng tình với những quy định về trách nhiệm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án như trong dự thảo luật. Tuy nhiên, đại biểu cho biết, điểm d khoản 2 Điều 3 của dự thảo luật quy định: Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử. Đại biểu cho rằng, quy định như vậy sẽ làm phát sinh một số vấn đề.

Theo đại biểu, cơ quan làm ra luật thì mới có thể giải thích đúng đắn tinh thần pháp luật. Quốc hội ban hành luật, thì chỉ Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới được giải thích luật. Chính phủ, các bộ, ngành ban hành Nghị định, Thông tư chỉ để hướng dẫn thi hành, hoặc quy định chi tiết. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng chỉ ban hành Nghị quyết để hướng dẫn đường lối xét xử. Đại biểu cho rằng hệ thống quy định như vậy đã đảm bảo hợp lý.

Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh

Tranh luận với đại biểu Bùi Sỹ Hoàn về vấn đề giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh cho biết, nhiều luật sư tranh tụng cùng cá nhân đại biểu đồng tình với quy định trong dự thảo luật. Theo đó, giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử thực chất là công việc tòa án đã và đang làm từ trước tới nay, không phải là hoạt động mới khi xét xử các vụ án, nhưng chưa được ghi nhận bằng một điều khoản cụ thể trong luật về nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án. Do đó, việc luật hóa hoạt động giải thích pháp luật trong xét xử là cần thiết.

Bên cạnh đó, chỉ có Tòa án mới có quyền ra bản án, tuyên một người là có tội hay không có tội, tử hình hay không tử hình, như vậy, phán quyết của tòa án liên quan trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của con người, do đó, tòa án giải thích rõ trong bản án là rất cần thiết, để tất cả những người tòa đã tuyên đều phải tâm phục, khẩu phục. 

Bày tỏ tán thành với việc cần Luật hóa giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử, đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) cho biết, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chỉ duy nhất Tòa án có quyền phán quyết một người là có tội hay không, thậm chí là tử hình hay không tử hình. Như vậy, phán quyết của Tòa án liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của một con người. 

Đại biểu nêu rõ, một người chỉ bị coi là có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Kể cả khi đã có kết luận điều tra hay cáo trạng của Viện kiểm sát thì người này vẫn chưa được coi là có tội. Do đó Tòa án phải giải thích rõ trong bản án, vì sao toán lại tuyên bị cáo có tội, vì sao là tội này mà không phải là tội khác? Vì sao là 5 năm mà không phải 10 năm tù? Vì sao lại chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát mà không chấp nhận ý kiến của luật sư. 

Đại biểu nhấn mạnh, Tòa án cần phải giải thích rõ trong bản án về việc áp dụng pháp luật gắn với những tình tiết, tình huống cụ thể của vụ án và có giải thích một cách rõ ràng, thấu đáo để thuyết phục được xã hội cũng như tội phạm.

Đại biểu Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) cho rằng, việc xem xét văn bản pháp luật khi xét xử cũng chính là nâng cao trách nhiệm của cơ quan tư pháp, tạo sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử của thẩm phán, tạo nên sự cân bằng, thúc đẩy tích cực quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước.

Đại biểu Phan Thị Nguyệt Thu (Hà Tĩnh) cho biết, dự thảo luật đã quy định, tòa án làm rõ trong bản án quyết định về nội dung được áp dụng trong hoàn cảnh, tình huống cụ thể, và tòa án phải giải thích cả những tình huống pháp lý nếu có tranh chấp mà chưa có luật quy định.

Đại biểu Phan Thị Nguyệt Thu

Đại biểu cho rằng, nếu có tranh chấp mà chưa có pháp luật quy định, khi người dân đề nghị tòa án giải quyết thì tòa án không được từ chối yêu cầu này. Như vậy, thẩm quyền giải thích áp dụng pháp luật của tòa hoàn toàn khác với thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tòa án chỉ giải thích những tình huống pháp lý, đưa ra xét xử. Tòa án có trách nhiệm phải giải thích cho người tiến hành, người tham gia tố tụng biết vì sao sử dụng luật nào, điều nào…

Nhiệm kỳ Thẩm phán và bảo đảm an ninh, trật tự tại Tòa án

Đại biểu Lương Văn Hùng (Quảng Ngãi) cho rằng, sửa đổi quy định liên quan đến nhiệm kỳ của thẩm phán, đại biểu cho biết, Điều 100 của dự thảo luật có quy định, Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu có nhiệm kỳ là 05 năm; Thẩm phán được bổ nhiệm lại có nhiệm kỳ đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác.

Đại biểu cho rằng, quy định này là khả thi, hoàn toàn phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. Trước hết, quy định này hoàn toàn phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng. Thẩm phán là một chức danh nghề nghiệp, chuyên môn, cũng giống như bác sĩ, sĩ quan, không giống như chức danh lãnh đạo, nên việc quy định nhiệm kỳ là không phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế. 

Đại biểu cũng cho biết, việc sửa đổi quy định về nhiệm kỳ thẩm phán góp phần giảm bớt thủ tục xem xét, bổ nhiệm lại thẩm phán, khắc phục tình trạng án tồn đọng khi thiếu thẩm phán do một số thẩm phán hết nhiệm kỳ không được tham gia xét xử, quy trình tái bổ nhiệm kéo dài, gây lãng phí nguồn lực của tòa án. 

Trường hợp thẩm phán có vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, thẩm phán có thể bị bãi miễn. Hiện nay, quy định ràng buộc trách nhiệm của thẩm phán đã tương đối đầy đủ, chặt chẽ. Pháp luật cũng đã đặt r cơ sở để xử lý, kỷ luật, xử lý hình sự, bãi nhiệm thẩm phán nếu có vi phạm.

Từ những lý do này, đại biểu cho rằng, quy định nhiệm kỳ của thẩm phán theo dự thảo luật đã thể hiện sự cẩn trọng của cơ quan soạn thảo, vừa đảm bảo tính rèn luyện, ý thức trau đồi phẩm chất, năng lực của thẩm phán, đảm bảo tính độc lập trong xét xử để thẩm phán yên tâm công tác.

 

Đại biểu Đinh Thị Ngọc Dung

Tham gia phát biểu ý kiến tại phiên họp, đại biểu Đinh Thị Ngọc Dung (Hải Dương) cho rằng, cần có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm an ninh, trật tự tại tòa án, đảm bảo an toàn cho các hoạt động của tòa án. 

Theo đại biểu, thực tiễn công tác của tòa án cho thấy, bảo vệ, bảo đảm an ninh trật tự của tòa án đang là yêu cầu cấp thiết. Trụ sở các tòa án thường là nơi tập trung đông người, đặc biệt khi có phiên tòa. Người tham gia phiên tòa thường là những người nhà của bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn trong các vụ án, khi đến phiên tòa dễ có tâm lý căng thẳng với nhau.

Đại biểu phản ánh, có nhiều trường hợp đã xảy ra xô xát tại phiên tòa, thậm chí người tham gia phiên tòa chống đối sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, hoặc tấn công người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm hoạt động bình thường của tòa án và trật tự pháp luật chung. 

Theo quy định pháp luật hiện hành, chỉ trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mới có lực lượng cảnh sát bảo vệ. Đại biểu cho rằng, trụ sở của các tòa án là nơi quản lý, lưu giữ các tài liệu giải quyết vụ án, đây đều là những tài liệu liên quan đến việc quyết định sinh mạng, tự do, quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong vụ việc, vì vậy, trụ sở các Tòa án cần được bảo vệ một cách chặt chẽ hơn nữa.

Nhiều trường hợp, các đối tượng, phần tử tiêu cực chống đối nhà nước Việt Nam đã lợi dụng việc nhà nước xét xử công khai để lôi kéo, dụ dỗ, kích động người dân, người thân của bị can, bị cáo gây rối, làm mất trật tự tại phiên tòa, thậm chí kích động gây nên khiếu nại, khiếu kiện đông người, gây rối tại trụ sở tòa án. 

Không khí thảo luận rất khẩn trương, dân chủ

Tại phiên thảo luận Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình ghi nhận các ý kiến của các đại biểu Quốc hội với nhiều ý kiến nghiên cứu sâu và nhiều ý kiến gợi mở để Ban soạn thảo tiếp thu nghiên cứu chỉnh sửa, đề nghị các đại biểu tiếp tục gửi ý kiến góp ý. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng trong quá trình đề xuất đổi mới có nhiều ý kiến khác nhau là điều tất yếu, trong đó có những nội dung cần có thêm thông tin, có những vấn đề cần giải trình và có những vấn đề cần lắng nghe đại biểu.

Cho rằng, thời gian vật chất không đủ để có thể trao đổi thấu đáo, cặn kẽ các vấn đề, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bày tỏ mong muốn Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép, tạo điều kiện để tổ chức hội nghị để làm rõ các vấn đề đại biểu quan tâm.

Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, trong phiên thảo luận tại hội trường  về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) đã có 31 ĐBQH phát biểu ý kiến, trong đó có 14 ĐBQH tranh luận. Trong danh sách còn 51 đại biểu đăng ký phát biểu và 1 đại biểu đăng ký tranh luận nhưng do hết thời gian, chưa được phát biểu. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đề nghị các đại biểu gửi văn bản cho Tổng Thư ký Quốc hội, Ủy ban Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao để tổng hợp và tiếp thu, giải trình.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, không khí thảo luận tại Hội trường rất khẩn trương, dân chủ, ý kiến của các ĐBQH đều thể hiện sự nhất trí cao về sự cần thiết sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, đồng thời các ĐBQH cũng đã góp ý nhiều vấn đề hoàn thiện dự án Luật. Sau phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo Tổng Thư ký Quốc hội tổng hợp đầy đủ ý kiến của các ĐBQH và giao Thường trực Ủy ban Tư pháp phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan có liên quan nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến của các ĐBQH, hoàn thiện dự thảo Luật. 

 

 

CAO THANH LOAN