Có áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo Huỳnh Xuân T không?

Bị cáo Huỳnh Xuân T đã có tiền án về tội “trộm cắp tài sản” và “tàng trữ trái phép chất ma túy”, có áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Huỳnh Xuân T không?

Bị cáo Huỳnh Xuân T đã có 04 tiền án về tội trộm cắp tài sản”tàng trữ trái phép chất ma túy”, như sau:

- Lần thứ 1: Ngày 16/12/2016 bị cáo bị xử phạt 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích.

- Lần thứ 2: Ngày 22/9/2020, bị cáo bị xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Chưa xóa án tích.

- Lần thứ 3: Ngày 20/12/2022, bị cáo trộm cắp tài sản trị giá 500.000 đồng, Tòa án xét xử bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS và có áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Chưa được xóa án tích.

- Lần thứ 4: Bị can tiếp tục trộm cắp tài sản trị giá 300.000 đồng. Trường hợp này thực tế truy tố, xét xử có 02 quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015. Bởi vì:

T chỉ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trị giá 300.000 đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố, tuy nhiên do T chưa được xóa án tích, nên hành vi của A trong lần thứ 4 là phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Quan điểm thứ hai (cũng là quan điểm của tác giả) cho rằng: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bởi vì:

Ngoài các tiền án về tội trộm cắp tài sản, bị cáo còn có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo tinh thần tại điểm b tiểu mục 7.3 Mục 7 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: Trường hợp các tiền án của bị cáo không được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” vì hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì các tiền án của bị cáo phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm”.

Tương tự, tham khảo tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ có quy định: “Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” …  của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp ngoài tiền án nêu trên, người phạm tội còn có tiền án khác thì tiền án này được sử dụng để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, trừ trường hợp các tiền án đều đã được sử dụng để xác định dấu hiệu định tội trong các lần kết án trước đó”.

Như vậy, đến lần phạm tội thứ 4, tiền án về tội “trộm cắp tài sản” là tình tiết định tội đối với bị cáo T theo Điều 173 Bộ luật Hình sự, còn tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy phải được sử dụng để xem xét việc tái phạmhay “tái phạm nguy hiểm” đối với bị cáo.

Mặt khác, lần phạm tội thứ 3, bị cáo đã bị áp dụng tình tiết tặng nặng là tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội thứ 4, bị cáo thuộc trường hợp là tái phạm nguy hiểm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự: “Các tình tiết đã được quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng”. Vì vậy, hành vi phạm tội lần thứ 4 của bị cáo phải bị truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc.

TRẦN MINH HUY (Thẩm phán TAND huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum)

TAND huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Ảnh: Minh Huy.