KỸ NĂNG ĐIỀU HÀNH TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ CỦA THẨM PHÁN (Kỳ II)
Kỹ năng điều hành tranh tụng trong thủ tục bắt đầu phiên toà có ý nghĩa rất quan trọng cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.3. Kỹ năng điều hành tranh tụng trong thủ tục bắt đầu phiên toà
Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có ý nghĩa rất quan trọng cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét xử tại phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phần thủ tục sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, công bố thành phần những người tham gia tố tụng, giải thích quyền, nghĩa vụ của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa thì thực tế cũng cho thấy có nhiều vấn đề mới nảy sinh khác với Cáo trạng của VKS truy tố như vấn đề về họ tên, nhân thân người phạm tội trong quá trình điều tra đã không có sự xác minh đầy đủ về nhân thân, tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nhiều vụ án, cáo trạng của Viện kiểm sát xác định bị cáo có tiền án, nhưng người bào chữa lại có chứng cứ, chứng minh bị cáo đã được đương nhiên xóa án và ngược lại bị cáo có tiền án nhưng cáo trạng lại xác định bị cáo không có tiền án… Theo quy định tại Chương IV từ Điều 55 đến Điều 71 về người tham gia tố tụng cũng đã có những bổ sung cơ bản về diện người tham gia tố tụng và quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo đó: So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm 08 NTGTT gồm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Người bị bắt; Người chứng kiến; Người định giá tài sản; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật này. Người tham gia tố tụng theo BLTTHS 2015 cũng được bổ sung thêm nhiều quyền và nghĩa vụ ví dụ như đối với bị cáo có những quyền và nghĩa vụ như sau “Nhận quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; Được thông báo về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đề nghị giám định, định giá tài sản; Đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; Các quyền khác theo quy định của pháp luật; Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án” (Điều 61 BLTTHS)..
Bị hại cũng có những quyền và nghĩa vụ cụ thể như “Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đưa ra chứng cứ; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; Được thông báo về kết quả giải quyết vụ án; Đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; Đề nghị mức hình phạt; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; Xem biên bản phiên tòa; Tự bảo vệ, nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Yêu cầu có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; Các quyền khác theo quy định của pháp luật; Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” (Điều 62 BLTTHS)… Nếu trong quá trình giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ nếu không đầy đủ cũng sẽ phát sinh tranh tụng giữa họ với Hội đồng xét xử hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng sẽ có ý kiến tranh tụng với Hội đồng xét xử về vấn đề này.
Và như vậy, Hội đồng xét xử cũng phải có trách nhiệm phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo yêu cầu của họ. Về phía đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa cũng phải có trách nhiệm làm rõ những điểm mới phát sinh để giải quyết những tình huống phát sinh trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Thực tiễn xét xử cho thấy, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng hiện hành và khoản 2 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung năm 2015, thì nếu như Điều 58 Bộ luật tố tụng hiện hành quy định là “… Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này” thì Điều 81 Bộ luật tố tụng 2015 quy định là “…Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này”. Quy định tại Điều 81 nêu trên so với quy định tại Điều 58 BLTTHS hiện hành đã mang tính “mềm” chứ không còn mang tính quy định cứng như trước. Tại Điều 58 quy định “khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”, thì việc giao nộp tài liệu, chứng cứ mà người bào chữa thu thập được là trách nhiệm, thì quy định tại Điều 81 BLTTHS 2015 chỉ quy định “phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án”. Quy định như vậy, theo tôi là không hợp lý và không khả thi và cũng là căn cứ để phát sinh tranh luận bởi lẽ: Trong thực tiễn xét xử có rất nhiều trường hợp, các Luật sư sẽ tìm mọi cách né tránh để không giao nộp các tài liệu, chứng cứ có tính chất gỡ tội hoặc có lợi cho thân chủ của họ mà chỉ tới khi ra Tòa luật sư mới giao nộp các tài liệu chứng cứ và học trình bày lý do là “Mới nhận được” và đây cũng chính là những vấn đề phát sinh mới tại phiên tòa cần phải có ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa để Hội đồng xét xử xem xét quyết định hoãn phiên tòa hay tiếp tục xét xử.
Sau khi kết thúc phần thủ tục thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định…
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phải bảo đảm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ và yêu cầu triệu tập người làm chứng, đồ vật, tài liệu ra xem xét hoặc việc xác định tư cách tham gia tố tụng. Các tài liệu, chứng cứ được cung cấp, triệu tập thêm người làm chứng hoặc ý kiến khác nhau về xác định tư cách tham gia tố tụng của một người đều phải được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai làm rõ để từ đó có hướng xử lý đúng đắn. Như vậy, việc các bên đưa ra yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và là cơ sở tranh luận ở phần tiếp theo của phiên tòa.
1.4. Kỹ năng điều hành tranh tụng trong thủ tục xét hỏi tại phiên toà
Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và xét xử liên tục là các nguyên tắc quan trọng của hoạt động xét xử tại phiên tòa. Điều này cũng đã được quy định rõ tại Điều 250 Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi 2015 là:
“1. Việc xét xử được tiến hành bằng lời nói.
Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi, nghe ý kiến của bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng, người giám định, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập; công bố biên bản, tài liệu và tiến hành hoạt động tố tụng khác để kiểm tra chứng cứ; nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự…”
Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa được coi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa từ hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu để trên cơ sở đó Hội đồng xét xử cùng Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng như người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có điều kiện kiểm tra các chứng cứ, Kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án, thông qua các câu hỏi và những câu trả lời tại phiên tòa luôn được đặt ra và trả lời một cách công khai, tự nguyện mang tính kiểm nghiệm kết quả, cho dù các câu hỏi hoặc câu trả lời ở giai đoạn xét hỏi có nội dung không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan điều tra cũng như các căn cứ để Viện kiểm sát ra bản Cáo trạng truy tố. Cũng tại giai đoạn xét hỏi, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự còn có điều kiện để xem xét vật chứng, xem xét hiện trường xảy ra vụ án và những nơi khác, công bố các tài liệu v.v… Vì vậy, để xét xử chính xác, khách quan vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự quy định Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trong những trường hợp pháp luật quy định và việc vắng mặt đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không trở ngại cho việc xét xử.
Việc xét xử phải được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án, trừ thời gian nghỉ theo quy định. Thời gian nghị án cũng là thời gian Tòa án làm việc. Khi chưa kết thúc phiên tòa, thì Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên không được phép tiến hành tố tụng đối với vụ án khác. Chính vì vậy, đối với vụ án phải xét xử nhiều ngày Tòa án thường phải cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết để có thể thay thế trong trường hợp cần thiết, tránh việc phải hoãn phiên tòa không cần thiết.
Để điều hành tốt và nâng cao chất lượng tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử không được lệ thuộc vào các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra và truy tố, mà phải xác định và làm rõ thêm các tài liệu, chứng cứ này bằng cách lắng nghe, phân tích chính xác các ý kiến trình bày của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là sự tham gia xét hỏi cũng như các tình tiết, chứng cứ của người bào chữa đề cập tại phiên tòa.
Về trình tự xét hỏi tại phiên tòa, Tại Điều 307 “Trình tự xét hỏi” của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng đã quy định cụ thể như:
“1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
(Còn nữa)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ I)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ III)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ IV)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ cuối)
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận