Quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con sau ly hôn – Quy định và thực tiễn

Ông Su Wei (SN 1978) với bà Nguyễn Thị T kết hôn năm 2012 ở nước ngoài, đến năm 2019 ly hôn. Bà T được quyền nuôi hai con nhưng nhiều lần ngăn cản quyền được thăm và chăm sóc hai người con chung của ông Wei, dẫn đến ông Wei khởi kiện...

Quy định của pháp luật

Pháp luật về hôn nhân gia đình của Việt Nam, cụ thể là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có những quy định khá cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con; con đối với cha mẹ. Trong đó có quy định về nuôi con, thăm con, chăm sóc giáo dục con sau khi hai vợ chồng ly hôn.

Điều 71 của Luật quy định: Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.  

Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn, Điều 81 quy định: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên… theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Đối với cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, Điều 82 cũng quy định: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Điều 83 quy định:  Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Như vậy, luật đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ cuộc sống của người con sau khi cha mẹ ly hôn, bảo đảm cho con được cả cha và mẹ cùng chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển bình thường như những trẻ em khác, giảm thiểu tổn thương cho con. Do đó, theo Điều 2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007, hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau là một trong những hành vi bạo lực gia đình.

Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định tại Điều 53: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của Tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.

Ngăn cản quyền gặp con

Mặc dù các quy định của pháp luật đã khá cụ thể, khi xét xử các vụ án hôn nhân gia đình, Tòa án đã giải thích và ghi trong bản án, quyết định về quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, nhưng trong thực tế thì quy định này dễ bị vi phạm, mà vụ án dưới đây là trường hợp khá điển hình.

Theo bản án số 54/2019/HNGĐ-PT của TAND tỉnh Long An, ngày 16/10/2019, bà T và ông Wei thuận tình ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân, bà T được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc hai con là cháu S.J.Y (SN 2013) và cháu S.J.X (SN 2015).

Ông Wei quốc tịch nước ngoài nhưng làm việc tại Việt Nam, thu nhập khá cao. Tòa án cho rằng hai con ở với mẹ phù hợp hơn, nhất là bà T có chỗ ở ổn định hơn ông Wei; ông Wei được quyền thăm con mà không ai được cản trở… nên ông Wei chấp nhận và không khiếu nại.

Tuy nhiên, từ khi ly hôn đến nay, ông Wei cho biết, ông đã nhiều lần liên hệ để thăm và chăm sóc các con đều bị bà T cùng gia đình ngăn cản. Trong đơn trình bày gửi cho phóng viên, ông Wei cho biết: Vì đặc thù công việc kinh doanh phải đi qua lại giữa hai nước, ông Wei nhiều lần liên hệ bà T để gặp con trong quá trình ly thân, cũng như sau khi có quyết định ly hôn, nhưng đều không được đáp ứng. Có lần ông Wei đưa mẹ từ nước ngoài sang để thăm cháu cũng bị ngăn cản. Bà cháu không được gặp nhau. Thậm chí có lần ông Wei bị hành hung.

Hiện nay bà T và hai con ở TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, ông Wei đã đến địa chỉ này để thăm nom hai con nhưng bà T viện đủ lý do ngăn cản không cho gặp. Lần nào ông Wei đến thăm con bà T cũng viện lý do như: Đang đưa con đi mua đàn, hôm nay chủ nhật đưa con đi chơi… để không cho cha con gặp nhau. Mấy năm trời không được gặp hai con dù ở rất gần khiến ông Wei vô cùng đau khổ.

Vì vậy, ngày 13/4/2023 ông Wei, thông qua đại diện theo uỷ quyền, đã nộp đơn khởi kiện đòi quyền được nuôi con gửi TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu Toà án giao hai con cho ông Wei được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Wei xin bảo đảm luôn tạo điều kiện cho bà T thực hiện quyền thăm nom, không yêu cầu bà T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

 

Quyết định đưa vụ án ra xét xử

Ngày 15/5/2023 TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thụ lý vụ án số 23/2023/TLST-HNGĐ về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”.

Ngày 3/7/2023, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiến hành hoà giải về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”.

Nguyên đơn là ông Wei trình bày, từ khi ly hôn đến nay, ông nhiều lần liên hệ để thăm và chăm sóc các con đều bị bà T cùng gia đình ngăn cản. Theo ông Wei, việc nuôi dưỡng của bà T đối với các con không tốt và bà T hiện tại không có nhà riêng nên ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của các con.

Ông Wei hiện đang làm việc cho công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Việc ông xin được quyền trực tiếp nuôi hai con chung vì ông Wei có đủ điều kiện nuôi con, có việc làm, thu nhập ổn định. Hơn nữa, con chung đều mang quốc tịch nước ngoài, do vậy nếu giao cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng thì mỗi lần gia hạn hộ chiếu sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cháu.

Về bị đơn bà Nguyễn Thị T cho rằng, trong suốt quá trình nuôi con, bà T đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo bản án số 54/2019/HNGĐ-PT ngày 16/10/2019 của TAND tỉnh Long An, nên không đồng ý để ông Wei nuôi con.

Buổi hòa giải không thành, như vậy vụ án sẽ được đưa ra xét xử.

Quyền và lợi ích chính đáng của các bên

Pháp luật về hôn nhân gia đình và trẻ em đã quy định chi tiết, cụ thể về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Tìm mọi cách để ngăn cản con không cho gặp cha, mẹ sau khi ly hôn không chỉ làm tổn thương người làm cha, mẹ, mà quan trọng hơn, còn khiến những đứa con mất đi cái quyền được chăm sóc, được thương yêu.

Luật cũng quy định vợ/ chồng phải tôn trọng quyền được nuôi con của người được Tòa giao nuôi con, quyền được thăm con và nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con.

Trong vụ việc này, bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng hai người con, nên sau khi ly hôn, ông Wei (người không trực tiếp nuôi con) hoàn toàn có quyền, nghĩa vụ thăm nom hai người con mà bà T đang nuôi, không ai có quyền cản trở, như bản án đã nêu rõ. Việc bà T và gia đình viện nhiều lý do cản trở việc gặp gỡ của bố và hai con được xác định là hành vi trái pháp luật.

Mỗi đứa trẻ được sinh ra đều cần được yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ, môi trường sống đảm bảo để trưởng thành. Chẳng ai mong cuộc hôn nhân của mình đổ vỡ, nhưng khi đã không cho các con được một gia đình đầy đủ, các ông bố, bà mẹ nên vì quyền lợi của con, hành xử văn minh và không vi phạm pháp luật.

Vụ án chắc chắn sẽ được Tòa án phán xử  thấu tình đạt lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và để các con của ông ông Wei, bà T có môi trường phát triển tốt nhất. Đó có lẽ cũng là mong muốn chung của người làm cha, làm mẹ sau mỗi cuộc hôn nhân đổ vỡ.

Vậy là từ sự cố chấp, không chấp hành bản án và quy định của pháp luật về quyền thăm nom, chăm sóc của người cha, bà T lại phải đối diện với một vụ kiện, các con lại thêm một lần tồn thương. Vụ án này âu cũng là bài học chung về chấp hành và hiểu biết pháp luật…

 

TAND huyện Tân Uyên, Lai Châu xét xử vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”- Ảnh: Lò Đanh

BẮC TRẦN