Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử về tội phạm mới

Sau khi đọc bài viết “Xác định thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ khi phạm tội mới và tổng hợp hình phạt” của tác giả Phạm Văn Phương, đăng trên Tạp chí ngày 12/11. Tôi đồng ý với quan điểm thứ ba.

Điểm b, khoản 1 Điều 55 BLHS năm 2015 quy định: “Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này”. Đồng thời, khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015 quy định “Khi xét xử một người đang chấp hành một bản án mà lại thực hiện phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này”. Khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015 đã thay cụm từ “thực hiện hành vi phạm tội mới” cho cụm từ “phạm tội mới” tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 1999, điều đó thể hiện tinh thần của BLHS năm 2015 ở đây là xác định đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới. Điều này cũng phù hợp với quy định tái phạm tại khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý…”. Mặt khác, sau khi thực hiện hành vi phạm tội mới, bị can/bị cáo sẽ bị áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú… trong thời gian này, bị can/bị cáo sẽ phải chấp hành nghĩa vụ của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Mặt khác, nếu người phạm tội đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ mà lại phạm tội mới, thì chứng tỏ việc người phạm tội được Tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trước đây đối với họ là không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm, mục đích hình phạt không đạt được. Như vậy, việc thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới không chỉ bảo đảm đúng quy định pháp luật, mà còn thể hiện thái độ của Nhà nước đối với người phạm tội, phản án đúng bản chất hành vi phạm tội.

Mặt khác, nếu trong trường hợp mà Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, tức là, không có thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời gian cải tạo không giam giữ vẫn được tính từ ngày cơ quan được giao quản lý, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án, mà không bị gián đoạn, như vậy, không có sự bất lợi cho người chấp hành án1.

Trở lại nội dung vụ án, tại bản án hình sự sơ thẩm số 184/2020/HS-ST ngày 15/8/2020, Tòa án Tp K đã xử phạt Nguyễn Văn A 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày 22/9/2020 (ngày UBND thị trấn T nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án). Ngày 23/9/2021, Tòa án huyện M đưa vụ án ra xét xử và tuyên phạt Nguyễn Văn A 03 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 2 điều 173 BLHS (quá trình điều tra, truy tố và xét xử Nguyễn Văn A không bị tạm giữ, tạm giam). Theo đó, thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến ngày tuyên án sơ thẩm, sau đó Tòa án tổng hợp hình phạt chung, tức là ngày 22/9/2020 (ngày UBND thị trấn T nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản bản án) về việc Nguyễn Văn A bị Tòa án Tp K xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS đến ngày 23/9/2021 Nguyễn Văn A phạm tội mới và bị Tòa án huyện M tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS.

Vì vậy, thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của Nguyễn Văn A được tính từ thời điểm UBND thị trấn T nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án cho đến thời điểm Tòa án xét xử tội phạm mới và tổng hợp hình phạt của hai bản án theo quy định tại Điều 55, Điều 56 BLHS năm 2015.

Trên đây là quan điểm trao đổi tác giả về vụ án, kính mong các độc giả đóng góp ý kiến.

*Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7

Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử  vụ án “Rửa tiền” - Ảnh: M Triết

TRẦN VĂN MINH*