Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử vụ án

Sau khi nghiên cứu bài viết “Tòa án nào có thẩm quyền xét xử vụ án?” của tác giả Nguyễn Thành Giang, Tòa án quân sự Khu vực 2 Hải quân, đăng ngày 15/3/ 2020 tác giả cho rằng thẩm quyền xét xử thuộc Tòa án quân sự.

Theo bài viết, Nguyễn Quốc K điều khiển xe ô tô tải rẽ phải đi vào đường nhánh, K đã không nhường đường cho xe mô tô biển kiểm soát 27D1-115.26 nên xảy ra va chạm, gây tai nạn. Hậu quả Hoàng Văn Q là quân nhân bị gãy xương bàn chân trái, tỷ lệ thương tích 31%; Đỗ Hữu M, không phải là quân nhân, bị chấn thương sọ não nặng được đưa đi cấp cứu và tử vong ngày 28-9-2019 tại Bệnh viện.

Với hậu quả đã gây ra, hành vi của K đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 SĐBS năm 2017”.

Qua nội dung vụ án theo tác giả bài viết hiện việc xác định thẩm quyền xét xử vụ án này vẫn còn có hai nhóm ý kiến khác nhau, một nhóm cho rằng vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh K; một nhóm cho rằng vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực, quân khu H (và quan điểm này có nhiều ý kiến đồng tình trong đó có tác giả).

Qua nội dung vụ án và các quan điểm xác định thẩm quyền xét xử đối với vụ án này trong đó có quan điểm tác giả, tôi có quan điểm như sau:

Trước tiên, tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm thứ 2 là nhóm quan điểm trong đó có quan điểm của tác giả đó là vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực Quân khu H. Ngoài các lý do mà tác giả đã phân tích đưa ra, tôi xin được bổ sung và phản biện lại đối với nhóm quan điểm 1 đã đưa ra.

Thứ nhất, vụ án này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân bởi lý do:

Một là, theo quy định tại khoản 1 Điều 272 BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì “1. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử: 

a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân. 

b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.”.

Trong khi đó việc Nguyễn Quốc K gây ra thiệt hại ngoài hậu quả làm Đỗ Hữu M chết do bị chấn thương sọ não nặng thì còn làm cho quân nhân Hoàng Văn Q bị gãy xương bàn chân trái, tỷ lệ thương tích 31%; tức là ở trong vụ án bị cáo Nguyễn Quốc K đã gây thiệt hại đến sức khỏe của quân nhân tại ngũ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 272 BLTTHS.

Hai là, theo quy định tại khoản 2 Điều 273 BLTTHS thì “2. Trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.”.  Đối với vụ án này việc gây thiệt hại đối với quân nhân Q không thể tách thành một vụ án khác được. Vì, nếu tách sẽ không đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, trọn vẹn. Theo quy định tại khoản Điều 170 BLTTHS thì “ 2. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án” trong khi đó hành vi của Nguyễn Quốc K chỉ là một hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và gây ra thiệt hại đến sức khỏe của quân nhân Q và xâm phạm tính mạng của M chứ không phải là các hành vi độc lập có các cấu thành tội phạm khác nhau. Do vậy, vụ án này không thể tách ra để giải quyết thành các vụ án khác nhau của các Tòa án khác nhau.

Vì vậy, đối với quan điểm 1 có nhận định cho rằng “việc gây thiệt hại đối với quân nhân M là một thiệt hại độc lập” quan điểm này là không chính xác. Bởi về lý luận khoa học luật hình sự không có khái niệm là “thiệt hại độc lập” mà chỉ có khái niệm là “hành vi độc lập” có cấu thành tội phạm độc lập. Bởi thiệt hại ở đây được hiểu là hậu quả do có mối quan hệ nhân quả đối với hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của bị cáo K. Một hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể gây ra các hậu quả khác nhau mà cụ thể trong vụ án này đó là ngoài xâm phạm sức khỏe của quân nhân Q với tỷ lệ thương tật là 31% còn xâm phạm tính mạng của M với hậu quả làm M chết.

Do vậy, căn cứ theo các quy định tại điểm b khoản 1 Điều 272 và khoản 2 Điều 273 BLTTHS thì vụ án này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.

Thứ hai, căn cứ theo các quy định tại khoản 1 Điều 268 và Điều 269 BLTTHS thì vụ án trên thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự khu vực H Quân khu H.

Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi đối với  bài viết “Tòa án nào có thẩm quyền xét xử vụ án” xin được trao đổi với tác giả và quý bạn đọc./.

Một phiên tòa do TAQS TƯ xét xử – Ảnh: PV

Ths ĐỖ NGỌC BÌNH ( Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)