Tùy trường hợp mà xác định bà S hoặc Chi cục Thi hành án dân sự có quyền khởi kiện hay không

Ngày 18/02/2022, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 18/02/2022 có đăng bài “Bà S và Chi cục thi hành án dân sự - ai có quyền khởi kiện?”, chúng tôi cho rằng Chi cục Thi hành án dân sự không có quyền khởi kiện.

Với nội dung vụ án, tác giả của bài viết nêu vấn đề trao đổi là bà S và Chi cục Thi hành án dân sự có quyền khởi kiện không. Tuy nhiên, tác giả không nói rõ yêu cầu khởi kiện cụ thể của bà S hoặc Chi cục Thi hành án dân sự là gì nên tôi xin phân tích một số khía cạnh của vụ án trong các trường hợp đương sự khởi kiện ra Tòa án như sau:

1. Trường hợp thứ nhất: Đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) với lý do Chi cục Thi hành án không giao được tài sản mà bà S mua thông qua bán đấu giá là căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất. Căn nhà này trị giá 100.000.000 đồng đã bị bà M cho người tháo dỡ và đập phá. Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS năm 2015. Trường hợp này, chủ thể khởi kiện có thể là bà S hoặc Chi cục Thi hành án dân sự hoặc Công ty đấu giá tài sản. Vì các lý do sau:

Thứ nhất, tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có quy định như sau:

- Kết quả đấu giá tài sản là căn cứ để các bên ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

- Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký kết giữa người có tài sản đấu giá với người trúng đấu giá hoặc giữa người có tài sản đấu giá, người trúng đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản nếu các bên có thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.

Từ quy định này, chúng ta thấy rằng tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản theo khoản 13 Điều 26 của BLTTDS năm 2015 và tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản đấu giá theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTS năm 2015 là khác nhau. Vì khi bán đấu giá thành nhưng có thể phát sinh tranh chấp, nếu Chấp hành viên hoặc người mua được tài sản đấu giá cho rằng có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản và yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá. Còn hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký kết khi đấu giá thành. Hợp đồng này được ký kết giữa các chủ thể trong hai trường hợp sau: (1) giữa người có tài sản đấu giá với người trúng đấu giá; (2) giữa người có tài sản đấu giá, người trúng đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản nếu các bên có thỏa thuận.

Thứ hai: Theo quy định tại khoản 5, 6 và 12 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có quy định như sau:

-  Người có tài sản đấu giá: Là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp vụ án trên, tài sản đấu giá là “Tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 nên người có tài sản đấu giá là Chấp hành viên của Chi cục Thi hành án dân sự.

- Người mua được tài sản đấu giá: Là người trúng đấu giá và ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu giá tài sản.Trong trường hợp trên, người mua được tài sản đấu giá là bà S.

- Tổ chức đấu giá tài sản: Bao gồm Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản và doanh nghiệp đấu giá tài sản.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật Đấu giá tài sản năm 2016: Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập. Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Giám đốc Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản là đấu giá viên. Theo khoản 1 Điều 23 của Luật Đấu giá tài sản năm 2016: Doanh nghiệp đấu giá tài sản được thành lập, tổ chức và hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh theo quy định của Luật Đấu giá tài sản năm 2016 và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trường hợp trên thì tổ chức đấu giá tài sản là Công ty đấu giá tài sản.

Thứ ba: Theo khoản 4 Điều 27 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ có quy định như sau:

- Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá.

- Trường hợp đến hạn theo hợp đồng bán đấu giá tài sản mà không giao được tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá thì người này có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.

Như vậy, trường hợp Chi cục Thi hành án dân sự không giao được tài sản là căn nhà của bà M trị giá 100.000.000 đồng cho bà S thì bà S có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Trường hợp hợp đồng bị hủy bỏ thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ bồi thường theo quy định tại Điều 425 và 427 của BLDS năm 2015. Từ những phân tích trên, trong trường hợp thứ nhất thì người có quyền khởi kiện có thể là bà S hoặc Chấp hành viên hoặc Công ty đấu giá. Tuy nhiên, theo nội dung vụ án thì người có quyền lợi bị xâm phạm là bà S nên bà S sẽ khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng mua bán tài sản đấu giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn Chấp hành viên hoặc Công ty đấu giá có khởi kiện hay không thì còn tùy thuộc vào thực tế.

* Trường hợp thứ hai: Khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản. Đây là tranh chấp dân sự về kết quả bán đấu giá tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 13 Điều 26 của BLTTDS năm 2015.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 thì “Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản”. Theo đó, Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

Tóm lại, qua phân tích hai trường hợp trên thì có thể khẳng định Chi cục Thi hành án dân sự không có quyền khởi kiện. Còn bà S thì có quyền khởi kiện. Trên đây là một số ý kiến cá nhân của tôi xin được trao đổi thêm.

 

Nộp đơn khởi kiện tại Tòa án - Ảnh: PV

DƯƠNG TẤN THANH (TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh)