Xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực trong tố tụng hành chính

Từ ngày 01/7/2025, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), hệ thống Tòa án được tổ chức lại, bỏ cấp huyện, thay bằng Tòa án nhân dân khu vực. Sự thay đổi này đòi hỏi xác định lại thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ trong tố tụng hành chính, bảo đảm phù hợp cơ cấu mới và yêu cầu cải cách tư pháp.

Xác định đúng thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền khởi kiện và tiếp cận công lý; nếu xác định sai, vụ án có thể bị trả lại đơn hoặc kéo dài thời gian giải quyết, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 30 và Điều 31 Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2025). Điều 4 của Dự thảo quy định cách xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực theo điểm b khoản 2 Điều 31:

“Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính cấp tỉnh với người bị kiện thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân khu vực nơi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện”.

Dưới đây là nội dung và phân tích Điều 4 Dự thảo Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng Điều 30 và Điều 31 Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2025)

1. Về khoản 1 Điều 4 Dự thảo

1.1. Về khoản 1 Điều 4 Dự thảo và đề xuất

Khoản 1 Điều 4 Dự thảo hiện quy định ba căn cứ chính để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực:

1. Nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính.

2. Nơi thực hiện hành vi hành chính.

3. Nơi có đối tượng bị tác động.

Tuy nhiên, quy định này chưa làm rõ khái niệm “nơi có đối tượng bị tác động” - tức là chưa xác định cụ thể đó là nơi đối tượng chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp, nơi đối tượng cư trú/tồn tại, hay nơi phát sinh hậu quả của tác động. Đồng thời, cũng chưa đề cập trường hợp đối tượng bị tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính ở nhiều địa điểm khác nhau. Trong thực tiễn, nhiều vụ việc hành chính có phạm vi tác động rộng, liên quan đến nhiều địa phương. Việc bổ sung, làm rõ nội hàm khái niệm này sẽ bảo đảm thuận lợi cho người khởi kiện, phù hợp với thực tiễn xét xử và góp phần thống nhất áp dụng pháp luật.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4 Dự thảo:

1. Giữ nguyên ba căn cứ xác định thẩm quyền theo lãnh thổ:

- Nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính.

- Nơi thực hiện hành vi hành chính.

- Nơi có đối tượng bị tác động.

2. Bổ sung giải thích thuật ngữ “nơi có đối tượng bị tác động”:

“Nơi có đối tượng bị tác động” là địa điểm nơi đối tượng của quyết định hành chính, hành vi hành chính tồn tại, cư trú, đặt trụ sở hoặc nơi phát sinh hậu quả trực tiếp của tác động đó.

3. Bổ sung quy định về trường hợp đối tượng bị tác động tại nhiều địa bàn hành chính:

“Trường hợp đối tượng bị tác động tại từ hai địa bàn hành chính cấp tỉnh hoặc cấp xã trở lên, người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân khu vực nơi có một trong các địa bàn đó để khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác nhằm bảo đảm tính khách quan, thuận tiện cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ”.

4. Lý do bổ sung:

- Làm rõ nội hàm khái niệm, bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật giữa các Tòa án.

- Khắc phục khoảng trống pháp lý đối với vụ việc có phạm vi tác động rộng, liên quan nhiều đơn vị hành chính.

- Phù hợp với mô hình tổ chức Tòa án nhân dân khu vực từ ngày 01/7/2025, khi thẩm quyền sơ thẩm bao quát cả các vụ việc trước đây thuộc cấp tỉnh và cấp xã.

- Bảo đảm quyền lựa chọn hợp lý cho người khởi kiện, đồng thời duy trì nguyên tắc phân định thẩm quyền và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án.

2. Về khoản 2 Điều 4 Dự thảo

Một số hạn chế của khoản 2 Điều 4 Dự thảo Nghị quyết đó là:

- Quy định hiện hành còn mang tính khái quát, thiếu hướng dẫn chi tiết về cách xác định “nơi” trong trường hợp cơ quan có nhiều trụ sở hoặc đơn vị trực thuộc ở nhiều địa phương, cũng như chưa làm rõ khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được phân cấp, ủy quyền thì “nơi” được xác định theo cấp nào.

Ví dụ - Quyết định hành chính do cơ quan được phân cấp ban hành

Ngày 15/8/2025, Trưởng Ban Quản lý An toàn thực phẩm TP. Hồ Chí Minh - cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố, được giao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và quyết định phân cấp của UBND thành phố - ban hành Quyết định số 456/QĐ-BQL xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Y, có trụ sở chính tại tỉnh Đồng Nai, hành vi vi phạm xảy ra tại cơ sở chế biến thực phẩm của công ty đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 05/9/2025, Công ty Y nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 456/QĐ-BQL. Quá trình xác định thẩm quyền giải quyết vụ án gặp khó khăn, bởi:

- Người khởi kiện (Công ty Y) có trụ sở tại tỉnh Đồng Nai.

- Cơ quan ban hành quyết định là Ban Quản lý An toàn thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh - cơ quan được phân cấp thẩm quyền từ Ủy ban nhân dân thành phố.

- Hành vi vi phạm xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chủ thể vi phạm lại ở địa phương khác.

- Việc không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về cách xác định “nơi ban hành quyết định hành chính” trong trường hợp cơ quan được phân cấp, ủy quyền có thể dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án nhân dân khu vực, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

- Quy định hiện hành chưa bao quát tình huống hành vi hoặc quyết định hành chính được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng, không gắn với một địa điểm cụ thể, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền.

Ví dụ - Quyết định hành chính ban hành hoàn toàn trên môi trường mạng

Ngày 05/8/2025, ông Nguyễn Văn A, cư trú tại tỉnh Lạng Sơn, nộp hồ sơ trực tuyến qua Cổng dịch vụ công quốc gia để xin cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế. Hồ sơ được tiếp nhận và xử lý hoàn toàn trên môi trường mạng bởi Cục Du lịch quốc gia Việt Nam - cơ quan thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có trụ sở chính tại Hà Nội.

Trong suốt quá trình giải quyết, ông A không phải gửi bất kỳ giấy tờ bản cứng nào và cũng không đến trụ sở cơ quan nhà nước; toàn bộ việc tiếp nhận, thẩm định, trao đổi bổ sung hồ sơ và ban hành quyết định đều được thực hiện qua hệ thống điện tử. Ngày 20/8/2025, Cục Du lịch quốc gia Việt Nam ban hành Quyết định số 789/QĐ-CDL từ trụ sở tại Hà Nội, từ chối cấp giấy phép cho ông A với lý do hồ sơ chưa đáp ứng điều kiện theo quy định.

Ngày 10/9/2025, ông A nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 789/QĐ-CDL. Quá trình xác định thẩm quyền giải quyết vụ án gặp khó khăn, bởi:

- Người khởi kiện cư trú tại tỉnh Lạng Sơn.

- Cơ quan ban hành quyết định đặt tại Hà Nội.

- Quy trình xử lý hồ sơ và ban hành quyết định diễn ra hoàn toàn trực tuyến, không gắn với một địa điểm vật lý cụ thể nơi phát sinh hoặc thực hiện hành vi hành chính.

Việc không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về xác định thẩm quyền trong trường hợp quyết định hành chính được ban hành hoàn toàn trên môi trường mạng có thể dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án nhân dân khu vực, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

- Chưa có tiêu chí ưu tiên hoặc cơ chế phối hợp giữa các Tòa án nhân dân khu vực, dẫn đến nguy cơ phát sinh tranh chấp về thẩm quyền khi nhiều Tòa án cùng thụ lý hoặc cùng từ chối giải quyết.

Ví dụ - Tranh chấp đất đai ở khu vực giáp ranh

Ngày 15/3/2026, Ủy ban nhân dân tỉnh M ban hành Quyết định số 123/QĐ-UBND về việc thu hồi một phần diện tích đất để thực hiện dự án đường liên tỉnh M-N. Thửa đất bị thu hồi nằm ngay trên ranh giới hành chính giữa tỉnh M và tỉnh N.

Ông Trần Văn B, cư trú tại tỉnh N, là người sử dụng hợp pháp thửa đất này và đã được Ủy ban nhân dân tỉnh N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2010. Tuy nhiên, phần diện tích thực tế của thửa đất lại trải dài sang địa phận tỉnh M, nơi dự án đường đi qua.

Ngày 05/4/2026, ông B nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định thu hồi đất nói trên. Quá trình xác định thẩm quyền giải quyết vụ án gặp khó khăn, bởi:

- Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh M cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh N cấp nên vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh N.- Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh N lại cho rằng quyết định thu hồi do Ủy ban nhân dân tỉnh M ban hành nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh M.

Việc không thống nhất quan điểm dẫn đến hồ sơ vụ án bị chuyển qua lại giữa các Tòa án, kéo dài thời gian giải quyết. Quyền lợi của người khởi kiện bị ảnh hưởng do chậm trễ, phát sinh chi phí và gây tâm lý bức xúc.

Nếu không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về xác định thẩm quyền trong trường hợp quyết định hành chính liên quan đến đất đai ở khu vực giáp ranh, có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các Tòa án nhân dân khu vực.

- Quy định hiện hành chưa tính đến yếu tố tác động gián tiếp hoặc hậu quả kéo dài, cũng như không đề cập trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị ảnh hưởng tại nhiều địa điểm khác nhau.

Ví dụ - Quyết định điều chỉnh quy hoạch giao thông gây tác động gián tiếp, kéo dài

Ngày 10/6/2026, Ủy ban nhân dân tỉnh C ban hành Quyết định số 456/QĐ-UBND về việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể mạng lưới giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh, trong đó thay đổi hướng tuyến của tuyến đường liên tỉnh C-D.

Theo phương án mới, tuyến đường được điều chỉnh đi qua khu vực đất nông nghiệp của nhiều hộ dân tại địa bàn tỉnh D. Mặc dù quyết định được ban hành tại tỉnh C và không trực tiếp thu hồi đất ngay lập tức, nhưng việc thay đổi hướng tuyến đã khiến quyền sử dụng đất của các hộ dân ở tỉnh D bị hạn chế trong thời gian dài: không thể chuyển nhượng, thế chấp hoặc đầu tư xây dựng do nằm trong diện quy hoạch.

Ngày 05/7/2026, ông Lê Văn H - một hộ dân tại tỉnh D - nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy một phần Quyết định điều chỉnh quy hoạch nói trên. Quá trình xác định thẩm quyền giải quyết vụ án gặp khó khăn, bởi:

- Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh C cho rằng người khởi kiện cư trú và có đất bị ảnh hưởng tại tỉnh D nên vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh D.

- Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh D lại cho rằng quyết định điều chỉnh quy hoạch do Ủy ban nhân dân tỉnh C ban hành nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực tại tỉnh C.

Việc không thống nhất quan điểm dẫn đến hồ sơ vụ án bị chuyển qua lại giữa các Tòa án, kéo dài thời gian giải quyết. Quyền lợi của người khởi kiện bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tình trạng quy hoạch treo kéo dài, phát sinh chi phí và gây tâm lý bức xúc.

Nếu không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về xác định thẩm quyền trong trường hợp quyết định hành chính gây tác động gián tiếp hoặc hậu quả kéo dài tại nhiều địa phương, có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các Tòa án nhân dân khu vực.

Điều 4 Dự thảo Nghị quyết đã đưa ra các tiêu chí hợp lý để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực, phù hợp với mô hình tổ chức mới từ ngày 01 tháng 7 năm 2025. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi và thống nhất áp dụng, cần bổ sung các quy định cụ thể như đã nêu trên. Việc này sẽ khắc phục khoảng trống pháp lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong bối cảnh cải cách tư pháp và chuyển đổi số.

Tác giả đề xuất dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 4 Dự thảo Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng Điều 30 và Điều 31 Luật Tố tụng hành chính như sau:

 Điều 4. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 31 Luật Tố tụng hành chính

1. “Nơi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện làm phát sinh, thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện” được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau đây:

a) Nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính: là địa điểm hành vi vi phạm được thực hiện hoặc nơi phát sinh hậu quả trực tiếp và quan trọng nhất.

Ví dụ: Ngày 15/9/2026, Công ty X xả thải trái phép ra sông tại xã M, tỉnh B. Xã M thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 2 tỉnh B. Chủ tịch UBND tỉnh B (được phân cấp thẩm quyền xử phạt từ Bộ Tài nguyên và Môi trường) ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty X. Người khởi kiện khiếu kiện quyết định này. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 2 tỉnh B - nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính - có thẩm quyền giải quyết.

b) Nơi thực hiện hành vi hành chính: là trụ sở, văn phòng, bộ phận một cửa hoặc địa điểm khác nơi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền thực hiện hoặc không thực hiện hành vi hành chính.

Ví dụ: Ngày 10/8/2026, Sở Xây dựng thành phố H (được phân cấp thẩm quyền cấp phép xây dựng từ Bộ Xây dựng) chậm cấp giấy phép xây dựng cho hộ ông B tại phường K. Phường K thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 3 thành phố H. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 3 thành phố H – nơi thực hiện hành vi hành chính – có thẩm quyền giải quyết.

c) Nơi có đối tượng bị tác động: là địa điểm gắn với đối tượng chịu tác động trực tiếp của quyết định hoặc hành vi hành chính.

Ví dụ: Ngày 05/7/2026, UBND thành phố H (được phân cấp thẩm quyền quản lý đất đai từ Bộ Tài nguyên và Môi trường) ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất tại xã N. Xã N thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực 4 thành phố H. Trường hợp này, Tòa án nhân dân khu vực 4 thành phố H - nơi có đối tượng bị tác động - có thẩm quyền giải quyết.

d) Trường hợp đối tượng bị tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính ở nhiều địa điểm khác nhau, người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân khu vực nơi có một trong các địa điểm đó để khởi kiện.

2. Khi xác định “nơi” quy định tại khoản 1, Tòa án căn cứ vào các tiêu chí sau:

a) Tiêu chí về yếu tố đo lường được: khoảng cách địa lý; thời gian di chuyển dự kiến; chi phí cần thiết; số lần dự kiến phải tham gia tố tụng trực tiếp.

b) Tiêu chí về yếu tố thuộc tính chất, hoàn cảnh: tình trạng sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế của đương sự; điều kiện hạ tầng giao thông; khả năng tiếp cận chứng cứ, tài liệu, người làm chứng.

3. Trường hợp có từ hai căn cứ trở lên cùng có thể áp dụng, Tòa án xác định thẩm quyền theo trình tự sau:

a) Ưu tiên căn cứ gắn với hậu quả trực tiếp và quan trọng nhất.

b) Trường hợp không xác định được rõ ràng nơi có hậu quả trực tiếp và quan trọng nhất, xem xét yếu tố thuận lợi theo các tiêu chí về yếu tố đo lường được.

c) Nếu các căn cứ ngang nhau về mức độ, xem xét bổ sung các tiêu chí về yếu tố thuộc tính chất, hoàn cảnh.

Ví dụ: Ngày 20/6/2026, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Q (được phân cấp thẩm quyền từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư) ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư của dự án trải dài trên địa bàn H1, H2, H3. Hậu quả trực tiếp và quan trọng nhất phát sinh tại H2. Áp dụng nguyên tắc ưu tiên, Tòa án nhân dân khu vực nơi H2 có thẩm quyền giải quyết.

4. Đối với vụ việc phát sinh trên môi trường điện tử, “nơi” được xác định theo một trong các địa điểm sau:

a) Nơi đặt hệ thống máy chủ chính.

b) Nơi đặt trụ sở pháp nhân quản lý nền tảng.

c) Nơi phát sinh phần lớn giao dịch điện tử hoặc nơi chủ yếu ghi nhận hậu quả.

d) Nơi đăng ký, quản lý đối tượng số có liên quan.Trường hợp có từ hai địa điểm trở lên, áp dụng trình tự quy định tại khoản 3 Điều này.

Ví dụ: Ngày 05/5/2026, Sở Công Thương tỉnh M (được phân cấp thẩm quyền từ Bộ Công Thương) xử phạt Công ty E vì quảng cáo sai sự thật trên website. Máy chủ chính đặt tại tỉnh Y; trụ sở pháp nhân quản lý nền tảng đặt tại tỉnh Z; giao dịch điện tử và hậu quả phát sinh phần lớn tại tỉnh M. Áp dụng khoản 3, Tòa án nhân dân khu vực tỉnh M có thẩm quyền giải quyết.

5. Khi thực hiện quyền lựa chọn Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều này, người khởi kiện phải trình bày rõ căn cứ lựa chọn “nơi thuận lợi nhất” theo các tiêu chí tại khoản 2, kèm theo tài liệu chứng minh ban đầu để Tòa án xem xét việc thụ lý. Trong giai đoạn xem xét thụ lý, Tòa án có quyền yêu cầu bổ sung tài liệu; trường hợp người khởi kiện không cung cấp được tài liệu, chứng cứ tối thiểu cần thiết để chứng minh căn cứ lựa chọn hoặc có dấu hiệu lạm dụng quyền lựa chọn Tòa án, Tòa án ra quyết định từ chối thụ lý theo nơi được chọn và chuyển vụ án theo quy định tại khoản 3; quyết định phải nêu rõ căn cứ. 

Ví dụ: Hành vi vi phạm hành chính và phần lớn chứng cứ đều phát sinh tại địa bàn thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực A. Tuy nhiên, người khởi kiện lại lựa chọn nộp đơn tại Tòa án nhân dân khu vực B với lý do “gần văn phòng luật sư”. Tòa án nhân dân khu vực B đã từ chối thụ lý vì lý do này chỉ phản ánh sự thuận tiện cá nhân, không thuộc các căn cứ pháp luật để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ; đồng thời, người khởi kiện không xuất trình được tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh thuộc trường hợp pháp luật cho phép lựa chọn Tòa án khác với nguyên tắc chung. Việc chấp nhận lý do này có thể tạo tiền lệ cho việc lựa chọn Tòa án tùy tiện, dẫn đến xung đột hoặc chồng chéo thẩm quyền, ảnh hưởng đến tính khách quan và hiệu quả giải quyết vụ án. Do đó, vụ án đã được chuyển về Tòa án nhân dân khu vực A để giải quyết, bảo đảm tuân thủ nguyên tắc phân định thẩm quyền.

6. Trường hợp không xác định được “nơi” theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này, thẩm quyền thuộc về Tòa án nơi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính.

Ví dụ: Ngày 15/8/2026, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh P (được phân cấp thẩm quyền từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) ban hành quyết định xử phạt Công ty Y về hành vi lưu thông giống cây trồng không có trong Danh mục giống cây trồng được phép sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Hoạt động lưu thông diễn ra đồng thời tại nhiều tỉnh, không xác định được rõ ràng địa điểm phát sinh hậu quả trực tiếp và quan trọng nhất; đối tượng bị tác động đã được phân phối trên phạm vi toàn quốc; không có máy chủ, trụ sở quản lý nền tảng hoặc địa điểm giao dịch điện tử chủ yếu để áp dụng khoản 4. Trong trường hợp này, thẩm quyền thuộc về Tòa án nhân dân khu vực nơi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh P đặt trụ sở.

7. Chi phí tố tụng phát sinh do việc lựa chọn Tòa án không có căn cứ có thể được xem xét khi quyết định về án phí, chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.

 

ThS. NGUYỄN ĐỨC THƯỜNG (Phó Trưởng phòng Pháp luật hành chính và QLKH, Vụ Pháp chế và QLKH, TANDTC)

TAND thành phố Hà Nội - Nguồn: Internet.