Hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phòng chống tham nhũng trong hoạt động tư pháp

Bài viết phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 liên quan đến tham nhũng trong hoạt động tư pháp. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật để hạn chế, triệt tiêu nguyên nhân của tham nhũng trong hoạt động tư pháp, góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm tham nhũng nói riêng.

1. Những chế định của Bộ luật Hình sự năm 2015 liên quan đến tham nhũng trong hoạt động tư pháp

Tham nhũng, tiêu cực trong xã hội có nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau làm phát sinh hoặc thúc đẩy quá trình thực hiện các hành vi tham nhũng, tiêu cực của người có chức vụ, quyền hạn; bao gồm các nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội; tâm lý, nhận thức và giáo dục; tổ chức, con người; pháp luật... Tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp cũng không nằm ngoài các nhóm nguyên nhân, điều kiện đó.

Theo tác giả, tham nhũng trong hoạt động tư pháp là việc người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Chấp hành viên...) lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp để trục lợi hoặc mục đích cá nhân khác. Để phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình, người có chức vụ có thể thực hiện hành vi tham nhũng bằng hai cách: (1) Lợi dụng các quy định tùy nghi, lựa chọn hoặc chưa rõ ràng trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc (2) Lạm dụng các quy định của pháp luật (vi phạm điều cấm) trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.

Từ góc độ Luật hình sự, các yếu tố, chế định khác nhau có thể là nguyên nhân làm phát sinh hoặc điều kiện thúc đẩy tình hình tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Có thể khẳng định rằng, lập pháp hình sự có tác động quyết định lên áp dụng pháp luật hình sự ở bất kỳ một quốc gia nào. Tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp, tức hoạt động áp dụng pháp luật, trong đó có áp dụng pháp luật hình sự phụ thuộc rất lớn vào các chế định pháp luật nội dung cũng như pháp luật hình thức.

Trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015), các yếu tố sau đây có thể bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp:

Một là, các quy định mang tính tùy nghi: Việc áp dụng chế định tùy nghi này chủ yếu do đánh giá chủ quan của người tiến hành tố tụng. Ví dụ: Trong BLHS năm 2015, khoản 2 Điều 8 quy định không phải là tội phạm đối với hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; Điều 29 quy định về miễn trách nhiệm hình sự; Điều 54 quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của luật; Điều 59 quy định về miễn hình phạt...

Hai là, các quy định mang tính lựa chọn: Trong BLHS năm 2015 có nhiều quy định lựa chọn trong áp dụng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Quyền lựa chọn của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc có nhiều chế tài lựa chọn các hình phạt khác nhau đối với một tội phạm. Đó là lựa chọn giữa tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng; lựa chọn giữa hình phạt tù với các hình phạt khác không phải là phạt tù… Trong quá trình áp dụng, người tiến hành tố tụng có quyền lựa chọn khi có đủ các điều kiện luật định. Việc lợi dụng hay lạm dụng các quy định mang tính lựa chọn này dễ dẫn đến vụ lợi.

Các quy định tùy nghi, quy định lựa chọn một mặt tạo điều kiện cho cơ quan, người tiến hành tố tụng linh hoạt trong việc áp dụng, cá thể hóa trách nhiệm hình sự phù hợp với từng trường hợp khác nhau trong thực tiễn. Tuy nhiên, cũng không loại trừ những trường hợp do các động cơ khác nhau mà cơ quan, người tiến hành tố tụng đã lợi dụng những chế định đó để ra những quyết định thiếu hợp lý, không đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, yêu cầu phòng, chống tội phạm. Có thể thấy rằng, quy định tùy nghi trong lập pháp hình sự là điều tất yếu; tuy nhiên, quy định tùy nghi chỉ trong những điều kiện cần thiết và những quy định đó cần được thể hiện chặt chẽ về điều kiện áp dụng, logic về mặt kỹ thuật để đảm bảo được nhận thức và áp dụng thống nhất, không bị lợi dụng để tiêu cực.

Ba là, tính mở trong quy định căn cứ hoặc điều kiện áp dụng một số chế định hình sự, nhất là một số chế định thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự. Các quy định của BLHS năm 2015 như miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29), miễn hình phạt (Điều 59), quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của luật (Điều 54), miễn chấp hành hình phạt (Điều 62), án treo (Điều 65), tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66), hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67), tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68)... là những quy định mang tính nhân đạo được Tòa án áp dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tính cưỡng chế, nhưng vẫn đảm bảo tính giáo dục, tính phòng ngừa của pháp luật hình sự nói chung, biện pháp trách nhiệm hình sự nói riêng.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng, không ít những trường hợp mà căn cứ, điều kiện áp dụng các chế định nhân đạo nêu trên còn thiếu chặt chẽ, không đầy đủ hoặc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

Bốn là, tính chất cưỡng chế trong các hình phạt như tước quyền sống, quyền tự do, hạn chế quyền về tài sản hoặc một số quyền cũng khác nhau. Hệ thống hình phạt như vậy được quy định nhằm đảm bảo cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt, thực hiện nguyên tắc nhân đạo, đường lối xử lý nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, thực hiện mục đích của hình phạt “không chỉ nhằm trừng trị, mà còn giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”... Vì vậy, trong Phần các tội phạm của BLHS, chế tài lựa chọn được quy định rất phổ biến dù đó là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Năm là, quy định các tội về trách nhiệm liên quan đến hoạt động tư pháp và áp dụng các quy định đó trên thực tế cũng thể hiện vai trò rất lớn của pháp luật hình sự trong phòng chống tham nhũng trong hoạt động tư pháp.

Nhóm tội phạm có tác động đến tham nhũng trong hoạt động tố tụng là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng. Các tội phạm như: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368); Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 369); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 370); Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 375); Tội tha trái pháp luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù (Điều 378); Tội không thi hành án (Điều 379)... được coi là những quy định mang tính răn đe, phòng ngừa cao đối với các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Bởi những hành vi bị cấm trong cấu thành các tội phạm này là những hành vi được chủ thể tiến hành tố tụng sử dụng phổ biến để trục lợi, có ý nghĩa quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp.

2. Những bất cập, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 liên quan đến phòng chống tham nhũng trong hoạt động tư pháp

2.1. Các quy định tại Phần chung

- Các quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt:

Quy định miễn trách nhiệm hình sự trong cả giai đoạn điều tra, truy tố là chưa hợp lý. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì chỉ Tòa án được tuyên bố một người phạm tội. Do đó, chỉ có Tòa án mới có quyền miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt. Ngoài ra, các căn cứ để áp dụng các biện pháp này chưa thật rõ ràng, cụ thể; phần lớn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người, cơ quan có thẩm quyền. Việc áp dụng các biện pháp này còn mang tính tùy nghi. Những biện pháp có căn cứ cứng vẫn mang tính tùy nghi, trong khi đó những biện pháp có căn cứ đánh giá chủ quan thì lại mang tính bắt buộc...

- Quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự:

Điều 54 BLHS năm 2015 quy định khi có 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên, Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt luật định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo quy định của BLHS. Việc nhà làm luật lấy số lượng các tình tiết giảm nhẹ làm căn cứ duy nhất để áp dụng chế định khoan hồng này có thể làm phát sinh trên thực tế việc áp dụng tùy nghi, chủ quan.

- Quy định về án treo:

Điều 65 BLHS năm 2015 quy định: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo. Đây là một trong những chế định đã có lịch sử lâu dài, được quy định phổ biến ở các quốc gia; nhưng cũng là chế định đang được đánh giá khác nhau về tính hợp lý cũng như hiệu quả áp dụng trên thực tế. Có ý kiến cho rằng, việc áp dụng án treo là một trong những lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực trong hoạt động tư pháp, do điều kiện xét án treo quá rộng. Theo tác giả, án treo là chế định của Luật hình sự có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách hình sự nước ta; đảm bảo chính sách nhân đạo, phân hóa trách nhiệm hình sự và tính hướng thiện của các biện pháp hình sự. Việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trong môi trường chung của cộng đồng mà không cần cách ly một mặt tạo điều kiện thuận lợi, tăng tính giáo dục cho người bị kết án tự giác sửa chữa khuyết điểm để trở thành người có ích cho xã hội, mặt khác tránh được những hệ lụy xã hội không đáng có khi kết án và xử phạt người phạm tội trong một số trường hợp. Vấn đề ở đây là cần phải xác định rõ ràng giới hạn, phạm vi áp dụng án treo để tránh lạm dụng tham nhũng, tiêu cực.

Liên quan đến chế định án treo có hai vấn đề được đặt ra, đó là: (1) Án treo là chế định tùy nghi hay bắt buộc áp dụng khi có đủ điều kiện. Khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 quy định: “Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo...”. Như vậy, theo BLHS thì dường như án treo là chế định bắt buộc khi có đủ điều kiện luật định. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì án treo được coi là chế định tùy nghi, Tòa án hoàn toàn có quyền áp dụng hoặc không áp dụng án treo đối với người bị kết án khi xét thấy cần hay không cần phải bắt người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù. (2) Hiểu thế nào là “không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù”. Trong số các điều kiện để áp dụng án treo, đây là quy định mở, mang tính tùy nghi áp dụng nhất. Điều kiện này ngoài yếu tố nhân thân thì có liên quan đến các yếu tố khác như tính chất của tội phạm, yêu cầu phòng chống tội phạm trong từng bối cảnh xã hội... hay không? Để việc áp dụng chế định án treo đúng đắn, BLHS năm 2015 cần quy định rõ ràng, cụ thể điều kiện này hoặc phải được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể.

- Các quy định liên quan đến thi hành án hình sự:

Chương IX BLHS năm 2015 cũng có các quy định về căn cứ, điều kiện để áp dụng các chế định khác nhau liên quan đến thi hành án mà việc áp dụng chúng có lợi cho người bị kết án và vì vậy, có thể bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực. Đó là các chế định như: Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66), hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67), tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68)... Khác với các chế định liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, các chế định liên quan đến việc chấp hành hình phạt này đều mang tính tùy nghi, tức giao cho Tòa án có thể áp dụng. Đặc biệt, việc xác định điều kiện, lập hồ sơ đề nghị hầu như thuộc thẩm quyền của cơ quan Thi hành án hình sự.

2.2. Quy định tại Phần các tội phạm

- Quy định chế tài lựa chọn và tùy nghi:

Trong BLHS năm 2015, ngoài chế tài các tội rất nghiêm trọng và một số ít tội nghiêm trọng, hầu hết các chế tài được quy định ở dạng lựa chọn. Đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng là lựa chọn giữa các hình phạt tử hình, tù chung thân với tù có thời hạn hoặc giữa tù chung thân với tù có thời hạn; đối với các tội phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, chế tài lựa chọn giữa phạt tù có thời hạn và các hình phạt không phải tù; một số ít tội phạm ít nghiêm trọng là chế tài lựa chọn giữa các hình phạt tù với nhau... Ngoài chế tài lựa chọn giữa các hình phạt, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân còn có khả năng lựa chọn trong từng chế tài giữa mức tối đa, tối thiểu của một loại hình phạt.

Quy định chế tài lựa chọn là giải pháp tất yếu của lập pháp hình sự để thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nhân đạo trong luật hình sự. Tuy nhiên, phạm vi, khả năng lựa chọn trong chế tài cần được quy định phù hợp với năng lực, tính vô tư, khách quan của người áp dụng, cách mà mỗi tội phạm được quy định và truyền thống Luật hình sự của mỗi quốc gia. Trong BLHS nước ta, ngoài các tội phạm về an ninh quốc gia, một số tội phạm về tham nhũng, các hình phạt bổ sung đối với đa số các tội phạm được quy định ở dạng chế tài tùy nghi, tức là Tòa án có thể áp dụng hay không tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, các yếu tố nhân thân của người phạm tội... Như vậy, cũng như chế tài lựa chọn, chế tài tùy nghi cũng có mặt tích cực và tiêu cực đối với việc áp dụng trên thực tế.

- Quy định về các tội tham nhũng liên quan đến hoạt động tư pháp:

Để phòng chống tiêu cực, tham nhũng nói chung, trong hoạt động tư pháp nói riêng, pháp luật cần có những quy định việc xử phạt các hành vi trái pháp luật do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Vì vậy, quy định các tội phạm về chức vụ, đặc biệt là các tội tham nhũng trong BLHS có ý nghĩa rất quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực.

Các quy định của BLHS năm 2015 như Tội nhận hối lộ; Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi; Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ... với các chế tài nghiêm khắc là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, việc luật quy định trách nhiệm ngang nhau đối với tất cả người có chức vụ trong bộ máy Nhà nước là chưa hợp lý. Tác giả cho rằng, người tiến hành tố tụng có hành vi tham nhũng, tiêu cực cần phải chịu trách nhiệm cao hơn với hành vi công vụ của mình.

3. Một số kiến nghị

- Đối với các quy định tại Phần chung: Tăng cường tính bắt buộc, hạn chế đến mức thấp nhất tính tùy nghi trong quy định các chế định như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của khung hình phạt, án treo, các chế định miễn, giảm trong thi hành án.

Quy định rõ ràng, cụ thể các điều kiện, căn cứ áp dụng các chế định của BLHS về giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự và cả những chế định tăng nặng trách nhiệm hình sự nhằm hạn chế tối đa các quy định mang yếu tố chủ quan của người tiến hành tố tụng. Người bị áp dụng chế tài hình sự cần được biết cụ thể căn cứ, điều kiện áp dụng các chế tài hình sự đối với mình để qua đó có sự kiểm soát hành vi, thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hợp lý. Đối với những quy định mang tính tùy nghi, thiếu cụ thể, rõ ràng thì cần được cơ quan có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn kịp thời; tránh để xảy ra những cách hiểu và áp dụng thiếu thống nhất, thiếu công bằng.

 Bên cạnh đó, cần xác định lại, quy định đúng đắn, hợp lý thẩm quyền áp dụng các chế định khác nhau của BLHS năm 2015. Xác định trách nhiệm cao hơn của Tòa án khi xem xét căn cứ, điều kiện áp dụng một số chế định liên quan đến thi hành hình phạt...

- Đối với các quy định tại Phần các tội phạm: Cần quy định rõ ràng, chặt chẽ căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm cụ thể; đồng thời hạn chế thẩm quyền tùy nghi trong áp dụng các quy định đó. Nghiên cứu bổ sung một số tội phạm được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại để thu hẹp hơn phạm vi tùy nghi trong khởi tố vụ án hình sự. Quy định hợp lý chế tài lựa chọn, chế tài tùy nghi đối với các tội phạm khác nhau, có thể nghiên cứu tách thành các tội khác nhau hoặc phân chia thành nhiều khung hình phạt và trên cơ sở đó thu hẹp phạm vi lựa chọn, phạm vi tùy nghi trong chế tài đối với mỗi tội phạm, mỗi khung hình phạt. Hoàn thiện Chương các tội phạm về chức vụ theo hướng tăng tính nghiêm khắc của chế tài đối với một số tội như: Tội nhận hối lộ; Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ... để đấu tranh có hiệu quả với tình trạng tham nhũng, tiêu cực, nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; có thể quy định thành tội riêng hoặc coi các chủ thể này phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hoàn thiện Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, nhất là đối với các tội mà chủ thể là người tiến hành tố tụng để tăng tính khả thi, đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ quyền con người; đồng thời hạn chế sự lạm dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng. Theo tác giả, cần bổ sung Tội thiếu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp với chế tài nghiêm khắc; đồng thời bỏ Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn, vì đây là trường hợp cụ thể thuộc Tội thiếu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp. Bởi hoạt động tư pháp luôn gắn trực tiếp với quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn cao hơn, được độc lập trong việc ra phán quyết của mình..., thì họ phải chịu trách nhiệm cao hơn, kể cả trách nhiệm hình sự.

Theo kiemsat.vn

 

Phiên toà xét xử vụ án AIC. Ảnh: TTXVN

 

PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ