Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 năm 2021

Trên Chuyên đề (số 15 năm 2021), Tạp chí Tòa án nhân dân trân trọng giới thiệu đến bạn đọc 10 bài viết của các chuyên gia, các nhà khoa học pháp lý hàng đầu, với các quan điểm lý luận sắc sảo khi luận bàn về các nội dung của Đề án đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới".

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Tòa án nhân dân tối cao triển khai xây dựng "Đề án đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới". Để kịp thời phục vụ công tác nghiên cứu chuyên sâu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, để thấy rõ vai trò, sự cần thiết của việc xây dựng Đề án này, Tạp chí Tòa án nhân dân xuất bản ấn phẩm Chuyên đề (số 15 năm 2021) phát hành ngày 10 tháng 8 năm 2021.

Trong nội dung bài giới thiệu này, chúng tôi xin nêu một số nội dung cơ bản, trọng tâm mà các bài viết đề cập đến, cụ thể như sau:

Với bài viết: "Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu tình hình mới”, tác giả Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao khẳng định: Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân là công việc hệ trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác của Tòa án, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của tình hình mới, bắt kịp các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới. Việc đổi mới, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc khó, tác động trực tiếp đến nhiều đối tượng, do đó, đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao, thống nhất về tư tưởng, nhận thức, hành động trong toàn hệ thống Tòa án và sự đồng thuận của xã hội.

Trong nội dung bài viết của mình, tác giả đưa ra các phân tích, lập luận cụ thể để thấy rõ sự cần thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân. Đồng thời chỉ rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân và nhiệm vụ, giải pháp đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân; từ đó đánh giá tác động của việc đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân.

Trong bài viết: “Sự cần thiết và một số định hướng nghiên cứu, xây dựng đề án đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân ”, tác giả Đào Trí Úc - Nguyên Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Luật học, Ủy viên Hội đồng Giáo sư Nhà nước nêu nhận định: Hiến pháp năm 2013 đã hiến định nhiều quan điểm, nguyên tắc quan trọng, trong đó, quan điểm nhất quán và xuyên suốt là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành và trên cơ sở quan điểm nhất quán của Hiến pháp, một loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành làm cơ sở cho việc đưa các quan điểm đó vào hoạt động của Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, nhân lực hệ thống Tòa án nhân dân đã có những đổi mới tích cực và rõ rệt theo hướng nâng cao vị thế của Tòa án, khẳng định vị trí của Tòa án nhân dân trong cấu trúc quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới.

Tuy nhiên, khoảng thời gian gần 10 năm qua cho thấy, những chuyển biến đó chưa đủ để tạo được lực đẩy cần thiết trong việc thực hiện các tư tưởng lớn của Chiến lược cải cách tư pháp và của Hiến pháp năm 2013. Nỗ lực của Nhà nước ta, nổi bật là của hệ thống Tòa án nhân dân là rất rõ nét trên nhiều mặt, nhưng mới chỉ dừng lại trong các quan điểm hoặc các thử nghiệm bước đầu. Đứng trước các nhiệm vụ và thách thức mới, khi Đảng ta có chủ trương xây dựng và ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 thì việc xây dựng Đề án “đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới” là hoàn toàn phù hợp, kịp thời và cần được đẩy nhanh trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc và toàn diện những vấn đề đã được đặt ra cũng như những vấn đề mới nảy sinh trong lý luận và thực tiễn.

Với bài viết: “Về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, tác giả Võ Khánh Vinh – Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam cho rằng: Nhân lực tư pháp là một nội dung quan trọng bậc nhất của cải cách tư pháp, một loại nhân lực pháp luật, là một chủ đề của chính sách quốc gia, tuy nhiên vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, hệ thống ở nước ta thời gian qua. Bằng cách tiếp cận chiến lược, bài viết này làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của quan niệm về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia và đưa ra những kiến nghị để xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, đáp ứng sự nghiệp cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Nhân lực tư pháp là chủ thể nòng cốt của nền tư pháp, là bộ phận cấu thành nhân lực quốc gia. Nhân lực tư pháp là một loại nhân lực pháp luật. Nhân lực tư pháp là những người thực thi quyền lực tư pháp, có nghề nghiệp đặc biệt, làm việc trong các cơ quan tư pháp, là lực lượng quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu lực, hiệu quả  các hoạt động tư pháp. Nguồn nhân lực tư pháp là nơi bắt đầu, nguồn tạo ra hoặc nguồn cung cấp nhân lực tư pháp. Vì vậy, để có nguồn nhân lực tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay, cần phải có cách tiếp cận chiến lược, phải có chiến lược phù hợp, mang tính đột phá để phát triển nguồn nhân lực tư pháp.

Trong bài viết này, tác giả tập trung luận giải quan niệm về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia. Trong quá trình luận giải những thành tố của quan niệm về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, tác giả kết hợp, tích hợp việc phân tích lý luận, phân tích thực tiễn, đưa ra quan điểm đổi mới về từng thành tố tương ứng nói riêng, về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia nói chung.

Trong bài viết:“ Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, tác giả Nguyễn Tất Viễn - Nguyên Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo CCTP TW nêu quan điểm: Lịch sử đã chứng minh rằng, trong hệ thống quyền lực nhà nước, quyền tư pháp có vị trí riêng biệt. Đó là một nhánh quyền lực được tổ chức và vận hành trong mối liên hệ mật thiết, không tách rời quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đó là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công lý) phán quyết về các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp, buộc các cá nhân, tổ chức chịu sự phán quyết đó phải thi hành. Đây là chức năng đầu tiên và quan trọng nhất của quyền tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện với sự tham gia của nhiều chủ thể có các chức năng, nhiệm vụ khác nhau, có tính đặc trưng trong hoạt động tư pháp (xét xử, điều tra, truy tố, giám định tư pháp, bào chữa…). Quyền tư pháp còn được hiểu là quyền của Tòa án được xây dựng và phát triển án lệ, bảo đảm cho pháp luật áp dụng thống nhất. Đó là những giá trị mang tính phổ quát của quyền tư pháp. Bên cạnh đó, quyền tư pháp cũng có những giá trị mang tính đặc thù, trước hết ở khía cạnh chính trị và tính giai cấp của nó. Vì xét cho cùng, quyền tư pháp là sự thể chế hóa, cụ thể hóa và hiện thực hóa của quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Vì vậy, quyền tư pháp ở các quốc gia có sự khác nhau do chế độ kinh tế, thể chế chính trị, truyền thống văn hóa, truyền thống pháp lý quy định. Bên cạnh đó, quyền tư pháp còn được thể hiện ở cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp, ở mô hình tố tụng mà quốc gia lựa chọn, ở quy trình, thủ tục tố tụng, cách thức và mức độ nhân dân tham gia vào công tác xét xử của Tòa án. Tất cả các yếu tố nêu trên dẫn đến một yêu cầu có tính nguyên tắc là: tổ chức và hoạt động của các thiết chế tham gia thực hiện quyền tư pháp khác với các thiết chế tham gia thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp.

Ở Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Đến Hiến pháp năm 2013 thì xác định TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp.

Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích các vấn đề lý luận về quyền tư pháp và cách thức tổ chức Tòa án. Đồng thời, với việc phân tích các quy định về tổ chức Tòa án ở Việt Nam từ 1945 đến nay, tác giả chỉ rõ một số kinh nghiệm lịch sử trong xây dựng Tòa án ở nước ta hiện nay, từ đó khẳng định cần tiếp tục đổi mới tổ chức TAND, tập trung vào đổi mới tổ chức của TAND cấp huyện.

Trong bài viết: Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, tác giả Trần Văn Độ - nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nguyên Chánh án Tòa án quân sự Trung ương cho rằng: Theo quy định của Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Theo quy định này của Hiến pháp thì nội dung quyền tư pháp là quyền phán quyết về các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp, phán quyết một số vấn đề về quyền nhân thân phi tài sản; thực hiện kiểm soát các cơ quan nhà nước khác trong thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp; phương thức thực hiện quyền tư pháp là xét xử. Các Tòa án nhân dân xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp, phán quyết về quyền nhân thân của con người, thực hiện kiểm soát các cơ quan khác trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp bằng hình thức duy nhất là xét xử thông qua thủ tục tư pháp chặt chẽ, dân chủ, minh bạch, công khai; bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình;

Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc Hiến định. Tuy nhiên, để nguyên tắc đó được thực hiện trên thực tế thì cần có hệ thống các điều kiện bảo đảm khác nhau như: nhận thức xã hội về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phân công và kiểm soát thực hiện quyền lực Nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan hành pháp, hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan tư pháp; tổ chức hệ thống tư pháp, nhất là hệ thống Tòa án nhân dân; địa vị, chế độ, chính sách của các chủ thể (Thẩm phán, Hội thẩm) thực hiện quyền tư pháp; năng lực độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm và sự lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án các cấp...

Với bài viết: “Kinh nghiệm quốc tế về chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp”, tác giả Nguyễn Thúy Hiền – nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu nhận định: Thẩm phán nói riêng và hệ thống các chức danh tư pháp của Tòa án nhân dân nói chung có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Do đó, chế độ tiền lương đối với các chức danh này cũng được đảm bảo cho tương xứng, phù hợp với trọng trách, vai trò mà họ được giao. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về chính sách tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp thuộc hệ thống Tòa án nhân dân.

Một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức thực hiện thành công Đề án sau khi được thông qua là bảo đảm chế độ chính sách tiền lương cho cán bộ, công chức, người lao động của Tòa án, nhất là Thẩm phán- người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xét xử

Trong bài viết này, tác giả tổng hợp, giới thiệu kinh nghiệm quốc tế về chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp, từ đó đưa ra một số đề xuất đối với Việt Nam.

Với bài viết: “Bảo đảm ng uồn lực và tinh gọn đầu mối của hệ thống Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới”, tác giả Đỗ Đức Hồng Hà - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XV nêu nhận định: Trong lĩnh vực tư pháp, Đảng đã đề ra các yêu cầu về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này, tiếp tục hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp, nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức có chức danh tư pháp, tiếp tục hoàn thiện các quy định về tố tụng tư pháp hướng tới bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Thời gian qua, tổ chức bộ máy của các cơ quan Tòa án nhân dân, tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động của các cơ quan này có sự chuyển biến rõ nét. Hoạt động của Tòa án nhân dân đã không ngừng đổi mới, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Tổ chức bộ máy được kiện toàn, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ thống Tòa án được củng cố về chất lượng và số lượng; cơ sở vật chất đã có bước cải thiện đáng kể. Hoạt động của Tòa án nhân dân đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động, tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân còn bộc lộ một số hạn chế, cần được tiếp tục rà soát, nghiên cứu theo chủ trương cải cách tư pháp.

Bài viết này, tác giả đưa ra những phân tích, lập luận của sự cần thiết và các cơ sở của việc bảo đảm nguồn lực và tinh gọn đầu mối cho hệ thống Tòa án nhân dân; từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị bảo đảm nguồn lực và tinh gọn đầu mối cho hệ thống Tòa án nhân dân.

Trong bài viết: “Thực trạng tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dâncấp huyện và yêu cầu định hướng sắp xếp, tổ chức lại”, tác giả Trương Thị Hồng Hà - Vụ Cải cách tư pháp, Ban Nội chính Trung ương nêu nhận định:  Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân  nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp , góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa  Việt Nam. Trong những năm qua, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được ban hành, hệ thống Tòa án nhân dân đã được kiện toàn về tổ chức để hoàn thành tốt chức năng Hiến định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức được củng cố về số lượng và chất lượng; Tòa án các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ, việc, hoàn thành các chỉ tiêu, yêu cầu theo Nghị quyết của Quốc hội; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với xây dựng Tòa án đạt được nhiều kết quả. Hoạt động của Tòa án nhân dân đã góp phần quan trọng trong phòng, chống tội phạm, giữ vững trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện quyền tư pháp đã bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc. Một trong những nguyên nhân của hạn chế là cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng chưa thực sự khoa học, nên chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Do đó, để có cơ sở kiện toàn tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, bài viết tập trung đánh giá thực trạng tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện về ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, để từ đó, xác định yêu cầu định hướng sắp xếp, tổ chức lại trong tình hình hiện nay.

Với bài viết: “Nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư, góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân”, tác giả Phan Trung Hoài - Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng: Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong tình hình mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống Tòa án, nhằm tiếp tục thực hiện các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và các Nghị quyết khác của Đảng. Nhiệm vụ này cũng được nêu trong Đề án của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao về đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 Khoá XII của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đề án được xây dựng với mục tiêu  nhằm cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng là: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân vào quá trình tố tụng tư pháp”.

Đề án này đặt ra trong bối cảnh quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật đã giao thêm cho Tòa án nhân dân nhiều nhiệm vụ, thẩm quyền mới để phù hợp với vị trí, vai trò là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp của đất nước. Xu thế mở rộng và gia tăng thẩm quyền xét xử, giải quyết cho Tòa án đã dẫn tới số lượng vụ việc tăng trung bình 8%/năm với quy mô, tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp. Yêu cầu, đòi hỏi của Nhân dân đối với hoạt động của Tòa án ngày càng cao; nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 đặt ra cho hệ thống Tòa án yêu cầu phải không ngừng cố gắng, nỗ lực phấn đấu để nâng cao uy tín trước Nhân dân, thật sự là niềm tin, chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.

Một trong những nội dung mà Đề án đặt ra là “đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”, hướng tới giai đoạn từ sau năm 2022 “xây dựng Tòa án nhân dân chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, minh bạch, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Với định hướng chính trị, pháp lý nêu trên, có thể khẳng định, Đề án của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao có ý nghĩa hết sức quan trọng và mang tính cấp thiết, có tác động lớn đến hoạt động tham gia tố tụng của đội ngũ Luật sư với tư cách là một chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự  là chức năng bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

Trong bài viết: “Nghiên cứu hệ thống Tòa án một số nước và khuyến nghị đối với hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam”, Vụ Hợp tác quốc tế, Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Tòa án nhân dân là trung tâm của công cuộc cải cách tư pháp. Trong những năm qua, hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam đã có những cải cách, đổi mới mạnh mẽ theo định hướng xây dựng một hệ thống Tòa án hiệu lực và hiệu quả với nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng Đề án “Đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới” là bước đầu tiên để xây dựng lộ trình cải cách tư pháp mới 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Do đó, không chỉ giới hạn việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong nước, mà việc nghiên cứu, tìm hiểu về lý luận và kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng hệ thống Tòa án đã trở thành yêu cầu cấp thiết, mang tính khách quan đối với Tòa án nhân dân tối cao. Bởi lẽ, đây chính là nguồn thông tin, tài liệu rất quan trọng, phục vụ cho công cuộc xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân hiệu lực và hiệu quả, do dân và vì dân.

Vài viết giới thiệu đến bạn đọc về cơ cấu tổ chức, hoạt động, sự tham gia của công dân vào hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án của một số nước như: Trung Quốc, Nga, Pháp, Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng như tiến trình đổi mới của Tòa án các quốc gia này và trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị về việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam trong thời gian tới.

Kính mời Quý độc giả đón đọc Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 năm 2021.

 

*Tạp chí Tòa án nhân dân bản in được phát hành 02 số/tháng (lịch phát hành là vào ngày 10 và 25 hàng tháng). Bạn đọc có nhu cầu đặt mua Tạp chí xin liên hệ bưu điện gần nhất hoặc gọi đến số điện thoại: (024) 39.341.735 để được tư vấn, hỗ trợ.

 

BTK