Dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử

Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao tại Nghị quyết số 127/NQ-CP ngày 08/10/2021, Bộ Công an đã chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định về định danh và xác thực điện tử để lấy ý kiến rộng rãi nhân dân. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu những nội dung chính của dự thảo Nghị định[1].

1. Sự cần thiết của việc xây dựng dự thảo Nghị định

Xây dựng Chính phủ điện tử, phát triển việc cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến để thúc đẩy cuộc Cách mạng công nghiệp lần thư tư đã và đang được Chính phủ, các Bộ, ban, ngành, địa phương đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, tính bảo mật an toàn thông tin luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người dân và doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch điện tử, trong đó bao gồm dịch vụ công trực tuyến do cơ quan nhà nước cung cấp và các giao dịch khác trên môi trường mạng.

Tuy nhiên, việc định danh và xác thực cá nhân khi thực hiện các giao dịch ngoài đời thực chủ yếu dựa trên một số giấy tờ nhân thân đã được quy định như Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân, hộ chiếu. Trong khi đó, việc giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử hiện nay cũng chưa có cơ chế để định danh, xác thực thông tin người dùng bảo đảm tính chính xác, đồng nhất, có kiểm chứng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ hành chính công trực tuyến.

Mặt khác, tình hình dịch bệnh Covid-19 trên thế giới và Việt Nam đang diễn ra hết sức phức tạp; ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt đời sống của xã hội, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nói riêng là rất cấp thiết; Chính phủ đã chỉ đạo đưa đất nước vào trạng thái “bình thường mới”, trong “điều kiện bình thường mới”, Bộ Công an với vai trò là cơ quan quản lý dân cư nhận thấy cần có trách nhiệm trong việc xác thực, định danh công dân trên môi trường điện tử, góp phần xác định chính xác thông tin công dân, phục vụ công tác quản lý, phòng chống tội phạm, phòng chống dịch bệnh.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng định danh và xác thực điện tử đối với cá nhân còn đáp ứng yêu cầu quản lý đối với giao dịch điện tử trên môi trường mạng nhằm hạn chế hoạt động lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín gây mất an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Từ ngày 01/7/2021, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã chính thức được đưa vào sử dụng, các Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và một số Cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác cũng đang đồng loạt triển khai xây dựng, đây là cơ sở quan trọng để làm nền tảng cho việc định danh và xác thực điện tử.

Do vậy, cần thiết phải hoàn thiện ngay cơ sở pháp lý về định danh và xác thực điện tử với mô hình tập trung, thống nhất; chỉ cung cấp một định danh gốc, danh tính điện tử duy nhất đối với cá nhân và thực hiện hoạt động kết nối, chia sẻ thông tin giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để đáp ứng các yêu cầu:

(1) Bảo đảm thực hiện việc định danh, xác thực điện tử ứng dụng trong các phần mềm, dịch vụ phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, góp phần ngăn chặn dịch bệnh và ổn định xã hội phục vụ mục tiêu kép của Chính phủ; quản lý giao dịch điện tử trên môi trường mạng.

(2) Tăng cường hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; hạn chế việc tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính trực tiếp (giảm chi phí, thời gian thực hiện; đảm bảo yêu cầu giãn cách, phòng chống dịch bệnh…); giảm giấy tờ, tài liệu, thông tin cần khai báo khi thực hiện thủ tục hành chính.

(3) Tiết kiệm chi phí, thời gian trong xây dựng Cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ công tác quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp.

Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin (CNTT) đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nghị quyết 36-NQ/TW đã khẳng định vị trí, vai trò của CNTT trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là tiền đề quan trọng tạo cơ hội lớn cho CNTT phát triển mạnh mẽ và định hướng xuyên suốt cho chiến lược ứng dụng, phát triển CNTT Việt Nam đến năm 2030.

Để cụ thể hoá một số định hướng và nội dung đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT, ngày 15/4/2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Theo đó, Chính phủ giao các nhiệm vụ cụ thể xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về ứng dụng, phát triển CNTT tạo hành lang pháp lý cho các dịch vụ CNTT, trong đó đẩy mạnh việc sử dụng chứng thực chữ ký số và xác thực điện tử, bảo mật thông tin trong cơ quan nhà nước và tổ chức, doanh nghiệp.

Để nâng cao hiệu quả trong giải quyết thủ tục hành chính, ngày 23/4/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính và Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thủ tục hành chính trên môi trường mạng. Theo đó, Cổng Dịch vụ công quốc gia là hợp phần giúp hỗ trợ việc kết nối, xác thực danh tính điện tử, cho phép tổ chức, cá nhân đăng ký tài khoản sử dụng; cung cấp chức năng đăng nhập một lần (Single-Sign-On) và các cơ chế xác thực người dùng để thực hiện các thủ tục hành chính. Đồng thời, yêu cầu đối với Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh hỗ trợ xác thực thông tin công dân, doanh nghiệp thông qua việc kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và các cơ sở dữ liệu khác liên quan.

Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XII) ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hành lang pháp lý cho định danh số và xác thực điện tử.

Ngày 08/10/2021, tại Nghị quyết số 127/NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2021 trực tuyến toàn quốc với địa phương về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2021 trong đó có nội dung giao Bộ Công an chủ trì xây dựng, tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định về định danh và xác thực điện tử.

Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử là hết sức cần thiết. Nghị định được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc đăng nhập hệ thống và tham gia dịch vụ công trực tuyến, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trong giao dịch điện tử.

2. Mục đích và quan điểm chỉ đạo xây dựng dự thảo Nghị định

Việc xây dựng dự thảo Nghị định nhằm mục đích sau:

- Tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch trên môi trường mạng, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn thông tin;

- Khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai ứng dụng CNTT thời gian qua; hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về chuyển đổi số hoạt động của cơ quan nhà nước hướng tới phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.

Việc xây dựng dự thảo Nghị định dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau:

- Đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và tính thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung và pháp luật về công nghệ thông tin, giao dịch điện tử, an toàn thông tin mạng và an ninh mạng; định hướng của Chính phủ về hoàn thiện hạ tầng và chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển Chính phủ điện tử;

- Phù hợp tình hình kinh tế, xã hội với hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin của tổ chức, doanh nghiệp và người dân ở Việt Nam;

- Đảm bảo tính khả thi của các quy định; đáp ứng yêu cầu hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

3. Về bố cục và những nội dung chính của dự thảo Nghị định

3.1. Bố cục của dự thảo Nghị định

Dự thảo Nghị định gồm 05 chương với 46 điều, cụ thể như sau:

- Chương I về quy định chung gồm 05 điều từ Điều 1 đến Điều 5: (1) Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, (2) Giải thích từ ngữ, (3) Nguyên tắc chung, (4) Các hành vi bị cấm, (5) Mục tiêu xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử.

- Chương II về danh tính điện tử, định danh điện tử gồm 2 Mục với 21 Điều từ Điều 6 đến Điều 26.

+ Mục I về danh tính điện tử gồm 04 điều từ Điều 6 đến Điều 9: (1) Danh tính điện tử của công dân Việt Nam, (2) Danh tính điện tử của người nước ngoài, (3) Danh tính điện tử của tổ chức, (4) Cập nhật danh tính điện tử.

+ Mục 2 về định danh điện tử gồm 17 điều từ Điều 10 đến Điều 26: (1) Mô hình cấp tài khoản định danh điện tử, (2) Đối tượng được đăng ký tài khoản định danh điện tử, (3) Các trường hợp tạm thời chưa được cấp tài khoản định danh điện tử, (4) Mức độ tài khoản định danh điện tử, (5) Nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử, (6) Trình tự, thủ tục đăng ký tài khoản định danh điện tử, (7) Xử lý hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử, (8) Thông báo kết quả cấp tài khoản định danh điện tử, (9) Kích hoạt tài khoản định danh điện tử, (10) Khóa tài khoản định danh điện tử, (11) Khôi phục tài khoản định danh điện tử đã khóa, (12) Giá trị sử dụng theo mức độ tài khoản định danh điện tử, (13) Sử dụng tài khoản định danh điện tử, (14) Thông tin trong hệ thống định danh điện tử, (15) Khai thác thông tin trong hệ thống định danh điện tử, (16) Xác thực danh tính của cá nhân, tổ chức, (17) Xác thực hồ sơ của cá nhân, tổ chức.

- Chương III về dịch vụ định danh và xác thực điện tử gồm 12 điều từ Điều 27 đến Điều 38: (1) Nền tảng định danh và xác thực điện tử Quốc gia, (2) Kết nối, xác thực với hệ thống định danh và xác thực điện tử quốc gia, (3) Cung cấp các dịch vụ trên ứng dụng định danh và xác thực điện tử quốc gia, (4) Sử dụng dịch vụ xác thực điện tử, (5) Cung cấp, chia sẻ và sử dụng thông tin danh tính điện tử, (6) Dịch vụ định danh và xác thực điện tử, (7) Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, (8) Hồ Sơ, trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, (9) Thay đổi nội dung Giấy chứng nhận và cấp lại Giấy chứng nhận, (10) Tạm đình chỉ Giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, (11) Hết hạn, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, (12) Ký quỹ và sử dụng tiền ký quỹ.

- Chương IV về quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, gồm 5 điều từ 39 tới Điều 43: (1) Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ, (2) Trách nhiệm của Bộ Công an, (3) Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông, (4) Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, (5) Trách nhiệm của các bộ khác, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Chương V về điều khoản thi hành gồm 03 điều từ Điều 44 đến Điều 46: (1) Hiệu lực thi hành, (2) Điều khoản chuyển tiếp, (3) Trách nhiệm thi hành.

 3.2. Nội dung cơ bản của dự thảo Nghị định

Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:

- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định về danh tính điện tử, định danh điện tử; dịch vụ định danh và xác thực điện tử; quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ và quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến định danh và xác thực điện tử.

- Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức của Việt Nam đang hoạt động tại nước ngoài; người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam có thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh; cơ quan, tổ chức đang hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có liên quan đến định danh và xác thực điện tử.

Về danh tính điện tử:

 Danh tính điện tử của công dân Việt Nam gồm: Số định danh cá nhân; h n g q nơi đăng ký thường trú. - Danh tính điện tử của người nước ngoài bao gồm: Số định danh của người nước ngoài; số ID công dân (nếu có); số hộ chiếu hoặc số giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế; họ, tên đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; gới tính; quốc tịch; Thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung và vân tay (nếu có).

- Danh tính điện tử của tổ chức gồm: Mã số tổ chức; tên tổ chức; địa chỉ trụ sở chính; ngành nghề kinh doanh; mã số thuế của tổ chức (nếu có); người đại diện hợp pháp của tổ chức; mẫu dấu hoặc chứng thư số của tổ chức.

Về định danh điện tử:

- Mô hình cấp tài khoản định danh điện tử: Sử dụng mô hình cấp tài khoản định danh điện tử tập trung để cấp tài khoản định danh điện tử. Giao Bộ Công an là đơn vị thực hiện việc cấp tài khoản định danh và xác thực điện tử.

- Đối tượng được đăng ký tài khoản định danh điện tử: Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên đăng ký tài khoản định danh điện tử thông qua ứng dụng VNEID hoặc đến cơ quan Công an nơi tiếp nhận đề nghị cấp Căn cước công dân đối với công dân Việt Nam và cơ quan Công an quản lý xuất nhập cảnh đối với người nước ngoài để thực hiện đề nghị cấp tài khoản định danh điện tử. Đối với cá nhân chưa đủ 14 tuổi, người được giám hộ thì đăng ký theo tài khoản định danh điện tử của cha, mẹ hoặc người giám hộ.

- Nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử: Cơ quan Công an tiếp nhận hồ sơ cấp Căn cước công dân. Cơ quan Công an xã, phường, thị trấn (trừ trường hợp công dân đăng ký tài khoản định danh điện tử khi cấp, đổi, cấp lại thẻ Căn cước công dân gắn chíp). Đối với các hồ sơ đăng ký định danh điện tử trực tuyến thông qua ứng dụng VNEID trên nền tảng di động hoặc trang web do Bộ Công an quy định nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký. Cơ quan Công an quản lý xuất nhập cảnh thực hiện tiếp nhận hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử đối với người nước ngoài.

- Trình tự, thủ tục đăng ký tài khoản định danh điện tử: Cá nhân, người đại diện của cơ quan, tổ chức đến trực tiếp đến cơ quan nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử hoặc nộp hồ sơ qua ứng dụng VNEID trên nền tảng di động hoặc web. Cá nhân, người đại diện của cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, giấy tờ chứng minh nội dung thông tin cần xác thực. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ đăng ký tài khoản định danh điện tử kiểm tra tính chính xác thông tin cá nhân, người đại diện của cơ quan, tổ chức cung cấp. Lập, xử lý hồ sơ cấp tài khoản định danh điện tử và báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về dịch vụ định danh và xác thực điện tử:

- Dịch vụ định danh và xác thực điện tử bao gồm: Dịch vụ định danh cá nhân, tổ chức trực tiếp tại các quầy giao dịch, nơi tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính hoặc những địa điểm khác sử dụng các thiết bị chuyên dụng do Cơ quan quản lý định danh hoặc cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu gốc về danh tính điện tử cung cấp để đối chiếu, so sánh giữa danh tính điện tử của cá nhân, tổ chức với dữ liệu gốc.

- Dịch vụ định danh khách hàng trực tuyến là dịch vụ cung cấp tài khoản định danh điện tử, danh tính điện tử cho cá nhân, tổ chức trực tuyến trên cơ sở đối chiếu, so sánh, xác thực với dữ liệu gốc thông qua nền tảng định danh và xác thực điện tử quốc gia và có các biện pháp đảm bảo chính xác cá nhân, tổ chức là chủ thể của danh tính điện tử, tài khoản định danh điện tử mà không yêu cầu gặp mặt trực tiếp.

- Dịch vụ xác thực dữ liệu về danh tính điện tử, dữ liệu khác cho cá nhân, tổ chức với dữ liệu gốc thông qua nền tảng định danh điện tử quốc gia để thực hiện các giao dịch dân sự và các thủ tục hành chính mà không cần phải xuất trình lại các giấy tờ chứng minh. Đối với dịch vụ này, Cơ quan, tổ chức quản lý trường dữ liệu nào mà cá nhân, tổ chức yêu cầu thì xác thực cho trường dữ liệu đó thông qua nền tảng định danh và xác thực điện tử quốc gia và có hiệu lực không quá 48h kể từ khi trả kết quả cho cá nhân, tổ chức. Trường hợp Cơ quan quản lý các Cơ sở dữ liệu không trực tiếp xác thực cho các dữ liệu thì ủy quyền bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức khác để thực hiện. Trong quá trình cung cấp dịch vụ, các tổ chức được cấp phép không thực hiện lưu trữ các dữ liệu của cá nhân, tổ chức khi chưa được cá nhân, tổ chức và cơ quan quản lý Nền tảng định danh và xác thực điện tử quốc gia đồng ý theo các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

- Dịch vụ xác minh danh tính là dịch vụ khẳng định cá nhân, tổ chức trong thực hiện các giao dịch dân sự, thủ tục hành chính và các giao dịch thủ tục khác đúng hoặc không đúng là chủ thể của danh tính điện tử thông qua nền tảng định danh và xác thực điện tử quốc gia.

- Dịch vụ phát triển, cung cấp tiện ích phục vụ công dân trên ứng dụng định danh điện tử quốc gia là dịch vụ phát triển, tích hợp các tính năng, tiện ích mới cho phép cung cấp các dịch vụ, thực hiện các giao dịch, thủ tục khác trên ứng dụng định danh điện tử quốc gia phù hợp với nhu cầu của cá nhân, tổ chức.

- Dịch vụ chia sẻ dữ liệu thông qua nền tảng định danh và xác thực điện tử là dịch vụ chia sẻ, cung cấp thông tin của chủ thể danh tính điện tử cho các cá nhân, tổ chức khi được sự đồng ý của chủ thể danh tính điện tử đó.

Dịch vụ định danh và xác thực điện tử là ngành nghề kinh doanh có điều kiện./.

 

Hà Nội làm căn cước công dân - Ảnh: MH

 

[1] Nội dung bài viết này được tổng hợp từ nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử, https://chinhphu.vn/?pageid=30187&vbid=4804&title=du-thao-nghi-dinh-quy-dinh-ve-dinh-danh-va-xac-thuc-dien-tu, truy cập ngày 16/02/2022.

ThS. TẠ ĐÌNH TUYÊN